Thực hành về hàm ý – Ngữ văn 12

Soạn bài Thực hành về hàm ý – Ngắn gọn nhất

Câu 1: Đọc đoạn trích và trả lời các câu hỏi (SGK, tr.79)

a. Nếu căn cứ vào lời đáp của A Phủ đối với câu hỏi của thống lí Pá Tra thì:

– Lời đáp thiếu thông tin về số lượng bò bị mất.

– Lời đáp thừa thông tin về hành động “lấy súng đi bắn con hổ”.

– Cách trả lời của A Phủ có hàm ý công nhận bò bị mất, bị hổ ăn thịt, công nhận mình có lỗi, nhưng A Phủ khôn khéo lồng vào đó ý định lấy công chuộc tội.

b.

– Hàm ý là những nội dung, ý nghĩ mà người nói không nói ra trực tiếp bằng từ ngữ, tuy vẫn có ý định truyền báo đến người nghe, còn người nghe phải dựa vào nghĩa tường minh của câu và tình huống giao tiếp để suy ra thì mới hiểu đúng, hiểu hết ý của người nói.

– Câu trả lời của A Phủ vi phạm phương châm về lượng khi giao tiếp.

Câu 2: Đọc đoạn trích và trả lời các câu hỏi (SGK, tr.80)

a.

– Câu nói của Bá Kiến có hàm ý muốn nói với Chí Phèo rằng: Tôi không có tiền cho anh và cũng không thể cho anh tiền mãi được.

– Cách nói ấy vi phạm phương châm cách thức.

b. Trong lượt lời thứ nhất của Bá Kiến có câu với hình thức hỏi: “Chí Phèo đấy hở?”. Câu này không nhằm mục đích hỏi. Thực chất Bá Kiến dùng câu hỏi để thực hiện hành vi hô gọi, hướng lời nói của mình về đối tượng, báo hiệu cho đối tượng biết lời nói đang hướng về đối tượng (Chí Phèo) hay là một hành động chào kiểu trịch thượng của kẻ trên đối với người dưới.

– Trong lượt lời thứ hai của Bá Kiến, câu mang hình thức câu hỏi là: “Rồi làm ăn chứ cứ báo người ta mãi à?”. Thực chất câu nói này không nhằm mục đích hỏi mà nhằm mục đích thúc giục, ra lệnh.

c.

– Ở lượt lời thứ nhất và thứ hai của mình. Chí Phèo không nói hết ý, chi bác bỏ hàm ý trong câu nói của Bá Kiến. Hàm ý này được tường minh hóa, nói rõ ở lượt lời cuôì cùng.

– Cách nói ở hai lượt nói đầu của Chí Phèo không đảm bảo phương châm về lượng và cả phương châm về cách thức.

+ Lượt lời thứ nhất của Chí không đảm bảo phương châm về lượng.

+ Lượt lời thứ hai, Chí Phèo tiếp tục vi phạm phương châm về lượng và phương châm về cách thức.

Câu 3: Đọc truyện cười và trả lời các câu hỏi (SGK, tr.80)

a. Câu nói có hình thức hỏi nhưng không nhằm mục đích để hỏi mà nhằm gợi ý một cách lựa chọn cho ông đồ.

Qua lượt lời lần thứ hai của bà đồ chứng tỏ trong lượt lời thứ nhất của bà có hàm ý: khuyên ông nên sử dụng giấy cho có ích lợi, cho rằng ông đồ viết văn kém, ông dùng giấy để viết văn chỉ thêm lãng phí, hay bỏ phí giấy, vứt giấy đi một cách lãng phí.

b. Bà đồ chọn cách nói có hàm ý vì lí do tế nhị, lịch sự đối với chồng, vì bà nể trọng ông đồ, muốn giữ thể diện cho ông và cũng để hàm ý trêu chọc ông.

Câu 4:

Chọn câu D.

Soạn bài Thực hành về hàm ý – Ngữ Văn 12

1. Đọc đoạn trích (1) và phân tích theo các câu hỏi (SGK)

a. Nếu căn cứ vào nghĩa tường minh trong lời đáp của A Phủ thì:

A. Lời đáp của A Phủ thiếu thông tin cần thiết của câu hỏi: số lượng bò bị mất (mất mấy con bò?). A Phủ đã lờ đi yêu cầu này của Pá Tra.

B. Lời đáp thừa thông tin so với yêu cầu của câu hỏi: A Phủ không nói về số bò bị mất mà lại nói đến việc dự định và niềm tin của mình (tôi về lấy súng thế nào cũng bắn được nó, con hể này to lắm).

C. Cách trả lời của A Phủ có sự khôn khéo là: không trả lời thẳng mà gián tiếp công nhận việc để mất bò, sau đó “xin” được “lấy công chuộc tội” (bắt hổ chuộc tội mất bò) lại nói rõ. “con hổ này to lắm…” nhằm làm giảm cơn tức giận của thông lí Pá Tra.

b. Khái niệm: Hàm ý là những nội dung, ý nghĩ mà người nói không nói ra trực tiếp bằng từ ngữ, tuy vẫn có ý định truyền báo đến người nghe, còn người nghe phải dựa vào nghĩa tường minh của câu và tình huống giao tiếp để suy ra thì mới hiểu đúng, hiểu hết ý của người nói.

Trong đoạn trích trên, A Phủ đã vi phạm phương châm về lượng (lượng tin) trong giao tiếp: A Phủ đã đưa thêm những thông tin không được người hỏi yêu cầu. Chính sự vi phạm này đã làm xuất hiện hàm ý (xin tha tội và cho được lập công chuộc tội).

2. Đọc và phân tích đoạn trích (3) (SGK).

a. Bá Kiến nói: “Tôi không phải là kho”, nói thế là có hàm ý gì? Cách nói như thế có đảm bảo phương châm chính thức không?

b. Ở lượt lời thứ nhất và thứ hai, Bá Kiến có những câu dạng câu trả lời. Những câu đó nhằm mục đích gì, thực hiện hành động nói gì? Chúng có hàm ý gì?

c. ở lượt lời thứ hai Chí Phèo đều không nói hết ý. Phần hàm ý còn lại được tường minh hóa ở lượt lời nào? Cách nói ở hai lượt lời đầu của Chí Phèo không đảm bảo phương châm hội thoại nào?

Gợi ý:

a. Câu nói của Bá Kiến: “Tôi không phải là cái kho” có hàm ý từ chối trước lời đề nghị xin tiền như mọi khi của Chí Phèo (cái kho – biểu tượng của của cải, tiền nong, sự giàu có. Tôi không có nhiều tiền).

Cách nói vi phạm phương châm cách thức (không nói rõ ràng, rành mạch). Nếu nói thẳng thì là: Tôi không có tiền để cho anh luôn như mọi khi.

b. Trong lượt lời thứ nhất của Bá Kiến có câu với hình thức hỏi: “Chí Phèo đấy hử”. Câu này không nhằm mục đích hỏi, không yêu cầu trả lời, vì Chí Phèo đã đứng ngay trước mặt Bá Kiến. Thực chất Bá Kiến dùng câu hỏi để thực hiện hành vi hô gọi, hướng lời nói của mình về đối tượng, báo hiệu cho đối tượng biết lời nói đang hướng về đối tượng (Chí Phèo) hay là một hành động chào kiểu trịch thượng của kẻ trên đối với người dưới. Thực hiện hành vi ngôn ngữ theo kiểu giao tiếp như vậy cũng có hàm ý.

– Trong lượt lời thứ nhất của Bá Kiến, câu mang hình thức câu hỏi là: “Rồi làm ăn chứ cứ bám người ta mãi à?”. Thực chất câu nói này không nhằm mục đích hỏi mà nhằm mục đích thúc giục, ra lệnh: ‘Hãy làm lấy mà ăn”. Đó cũng là câu nói thực hiện hành vi ngôn ngữ theo lối gián tiếp, có hàm ý.

c. Ở lượt lời thứ nhất và thứ hai của mình. Chí Phèo không nói hết ý, chi bác bỏ hàm ý trong câu nói của Bá Kiến: “Tao không đến đây xin năm hào”, “Tao đã bảo tao không đòi tiền”. Vậy đến đây để làm gì? Điều đó là hàm ý. Hàm ý này được tường minh hóa, nói rõ ở lượt lời cuôì cùng: “Tao muốn làm người lương thiện”. Cách nói vừa để thăm dò thái độ của Bá Kiến vừa tạo ra kịch tính cho cuộc thoại.

3. Đọc và phân tích truyện cười (SGK) theo câu hỏi).

a. Lượt lời thứ nhất của bà đồ nhằm mục đích gì, thực hiện hành động nói gì, có hàm ý gì?

b. Vì sao bà đồ không nói thẳng ý mình mà chọn cách nói như trong truyện?

Gợi ý.

a. Lượt lời thứ nhất bà đồ nói: “Ông lấy giấy khổ to mà viết có hơn không?”. Câu nói có hình thức hỏi nhưng không nhằm mục đích để hỏi mà nhằm gợi ý một cách lựa chọn cho ông đồ.

Qua lượt lời lần thứ hai của bà đồ chứng tỏ trong lượt lời thứ nhất của bà có hàm ý: khuyên ông nên sử dụng giấy cho có ích lợi, cho rằng ông đồ viết văn kém, ông dùng giấy để viết văn chỉ thêm lãng phí, hay bỏ phí giấy, vứt giấy đi một cách lãng phí.

b. Bà đồ chọn cách nói có hàm ý vì lí do tế nhị, lịch sử đối với chồng, bà không muốn trực tiếp chê văn của ông chồng mà thông qua lời khuyên đê gợi ý cho ông đồ lựa chọn.

4. Qua những phần trên, anh chị hãy xác định: để nói một câu có hàm ý, người ta thường dùng những cách thức nói như thế nào? Chọn phương án trả lời thích hợp (SGK).

Gợi ý

Để có một câu có hàm ý, người ta thường dùng các nói chú ý vi phạm một (hoặc một số) phương châm hội thoại nào đó, sử dụng cách hành động nói gián tiếp; chú ý vi phạm phương châm về lượng (nói thừa hoặc thiếu thông tin) mà đề tài yêu cầu: chú ý vi phạm phương châm quan hệ, di chệch đề tài cuộc giao tiếp: chú ý vi phạm phản cách thức, nói mập mờ, vòng vo, không rõ ràng, rành mạch.

Soạn văn lớp 12: Thực hành về hàm ý

Câu 1:

a. Nếu căn cứ vào nghĩa tường minh trong lời đáp của A Phủ thì:

– Lời đáp thiếu thông tin về số lượng bò bị mất.

– Lời đáp thừa thông tin về việc lấy súng đi bắn hổ.

– Cách trả lời của A Phủ có hàm ý công nhận bò bị mất, bị hổ ăn thịt, công nhận mình có lỗi, nhưng A Phủ khôn khéo lồng vào đó ý định lấy công chuộc tội hơn nữa con hé mở hi vọng con hổ có gí trị hơn nhiều so với con bò bị mất (con hổ này to lắm).

b. Hàm ý là nội dung của câu hỏi không được thể hiện trong nghĩa tường minh mà được suy ra từ nghĩa tường minh và nhờ ngữ cảnh hỗ trợ.

Câu trả lời của A Phủ vi phạm phương châm về lượng khi giao tiếp: vừa thiếu vừa thừa thông tin, tức là chủ ý vi phạm phương châm về lượng tin để tạo ra hàm ý. Đó là công nhận việc để mất bò nhưng muốn lấy công chuộc tội.

Câu 2:

a. Câu nói của Bá Kiến “Tôi không phải cái kho” hàm ý: từ chối trước lời đề nghị xin tiền như mọi khi của Chí Phèo (cái kho: biểu tưởng của cải, tiền nong, sự giàu có. Tôi không có nhiều tiền).

Cách nói vi phạm phương châm cách thức (không nói rõ ràng rành mạch. Nếu nói thẳng thì nói: “Tôi không có tiền để cho anh luôn như mọi khi.”)

b. Chí Phèo đấy hở? Đây là câu hỏi nhưng hành động chào. Hàm ý: anh lại lôi thôi gì đây.

Rồi làm mà ăn chứ cứ báo người ta mãi à? Đây là câu hỏi nhưng hành động sai khiến. Hàm ý: Chí Phèo nên lo làm ăn, không được đến đây xin tiền nữa.

c. Ở hai lượt lời đầu, Chí Phèo cố ý không nói đầy đủ nội dung. Phầm hàm ý được thể hiện lượt lời thứ ba: Tao muốn làm người lương thiện!

Hai lượt lời vi phạm phương châm về lượng, về cách thức: nói thiếu ý và không rõ ràng – không xin tiền thì xin gì, – không đòi tiền thì đòi gì.

Câu 3:

a. Lượt lời thứ nhất của bà đồ có hình thức câu hỏi, nhưng không phải để hỏi, mà thực hiện hành động khuyên rất thực dụng: khuyên ông đồ viết bằng giấy khổ to. Qua lượt lời thứ hai của bà, ta con thấy lượt lời đầu có thêm hàm ý khác (không nói ra): không tin tưởng hoàn toàn vào tài văn chương của ông, ông viết nhưng có thể bị loại bỏ vì văn kém, chứ không phải như điều đắc chí của ông đồ (ý văn dồi dào).

b. Bà đồ không nói thẳng ý mình mà chọn cách nói như trong truyện vì còn nể trọng ông đồ, muốn giữ thể diện cho ông và cũng muốn ông không phải chịu trách nhiệm về cái hàm ý của câu nói.

Câu 4:

Để tạo ra cách nói có hàm ý, tuỳ thuộc ngữ cảnh mà người nói sử dụng một cách thức hoặc phối hợp một vài cách thức với nhau.

Như vậy cần chọn phương án D.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *