Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi – Ngữ văn 12

Soạn bài Những đứa con trong gia đình – Ngắn gọn nhất

Câu 1:

– Truyện “Những đứa con trong gia đình” được trần thuật lại chủ yếu qua dòng hồi tưởng của nhân vật Việt.

– Cách trần thuật như vậy khiến truyện được kết cấu theo diễn biến của trí nhớ và ý thức, cảm xúc của nhân vật cứ lúc bị đứt ra rồi lại nối lại qua những lần ngất đi rồi tỉnh lại ấy.

Câu 2: Tác phẩm kể chuyện một gia đình. Gia đình này gồm ba, má Việt, chị Chiến, chú Năm và Việt.

Câu 3: Trong truyện này, nổi bật nhất là hai nhân vật Việt và Chiến. Cả hai nhân vật đều xuất thân trong một gia đình, tuổi tác cũng gần nhau nhưng do đặc điểm về giới tính và thứ bậc trong gia đình nên giữa hai người vừa có nét chung vừa có nét riêng biệt.

* Những nét tính cách chung:

–Họ đều có tình cảm gia đình sâu nặng.

– Chị em Việt có chung mối thù với bọn Mỹ – Ngụy.

–Hai chị em Chiến – Việt đều có những nét rất ngây thơ thậm chí có phần trẻ con.

* Nét đẹp riêng:

a. Chiến là cô gái đảm đang, tháo vát:

– Chiến hơn Việt chừng một tuổi nhưng Chiến người lớn hơn hẳn:

=> Nói tóm lại, Chiến là cô gái tiêu biểu cho người phụ nữ miền Nam rắn rỏi, đảm đang, anh hùng.

b. Nét riêng ở Việt:

– Việt – người thanh niên với những phẩm chất hồn nhiên.

– Việt có tình cảm với gia đình rất sâu sắc.

– Việt mang trong mình phẩm chất người anh hùng.

– Việt mang trong mình vẻ đẹp của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ: trẻ trung, gan dạ, đáng yêu nhưng cũng rất mực anh hùng dũng cảm.

Câu 4:

– Trong truyện “Những đứa con trong gia đình” đã xây dựng nhân vật trung tâm theo khuynh hướng sử thi, nhân vật Việt và Chiến – những con người đại diện cho giai cấp, cho dân tộc với những phẩm chất cao cả, kết tinh những gì cao đẹp nhất của cộng đồng.

– Câu chuyện xoay quanh các thành viên trong một gia đình có truyền thống yêu nước, căm thù giặc từ đời này qua đời khác từ đời bố mẹ là những người anh hùng hi sinh vì đất nước đến những người con kế tiếp đứng lên quyết trả nợ nước thù nhà.

Câu 5:

– Đoạn văn cảm động nhất đó là cảnh hai chị em Việt và Chiến khiêng bàn thờ má chạy qua cánh đồng, gửi sang nhà chú Năm để hai chị em lên đường đi chiến đấu.

– Cảnh tượng đó khiến người đọc liên tưởng và bồi hồi xúc động bởi nhìn vào đó ta thấy được tình yêu, tình hiếu thảo, chọn nghĩa đối với cha mẹ.

– Hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng thể hiện sự trưởng thành của hai chị em có thể gánh vác việc gia đình và viết tiếp khúc sông của mình trong dòng sông truyền thống gia đình.

Luyện tập:

Câu 1:

– Đoạn đối thoại của Chiến và Việt đêm trước ngày nhập ngũ rất sinh động, thể hiện rõ tính cách và cá tính của từng nhân vật.

– Hai chị em thể hiện là hai chị em gan góc và chung mối thù với bọn xâm lược. Tuy còn nhỏ tuổi, chí căm thù đã thôi thúc hai chị em cùng một ý nghĩ: phải trả thù cho ba má, và có cùng nguyện vọng: được cầm súng đánh giặc

– Gan góc, dũng cảm, khao khát được chiến đấu giết giặc và giàu tình nghĩa, rất mực thủy chung, son sắt với cách mạng và quê hương.

– Chỉ qua đoạn đối thoại của hai chị em trước đêm nhập ngũ ta cũng đã thấy rõ được tính cách của hai nhân vật Chiến – Việt. Cùng thương má, cùng mang mối thù chung của gia đình, cùng quyết tâm giết giặc, nhưng Chiến thì tỏ rõ tính cách, cá tính của người chị, một cô gái mới lớn, còn Việt thì tính cách, cá tính vẫn còn rất “trẻ con”, là cậu con trai vô tư, hồn nhiên.

Soạn bài Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi – SGK Ngữ Văn lớp 12 tập 2

I. Soạn văn

1. Đoạn trích được trần thuật chủ yếu từ điểm nhìn của nhân vật nào? Cách trần thuật này có tác dụng như thế nào đối với kết cấu truyện và việc khắc họa tính cách nhân vật?

Truyện Những đứa con trong gia đình chủ yếu được trần thuật dưới góc nhìn của nhân vật Kiều, khi anh bị thương trong trận đánh, lúc mê lúc tỉnh. Lối trần thuật này cỏ hai tác dụng về mặt nghệ thuật:

–   Câu chuyện vừa được thuật, kể cùng một lúc, tính cách nhân vật cũng được khắc họa.

–    Câu chuyện dù không có gì đặc sắc cũng trở nên mới mẻ, hấp dẫn vì được kể qua con mắt, tấm lòng và bằng ngôn ngữ, giọng điệu riêng của nhân vật.

–   Nhà văn có thể nhập sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật để dẫn dắt câu chuyện. Diễn biến của câu chuyện vì thế mà linh hoạt, có thể xáo trộn thời gian, không gian, không phụ thuộc vào trật tự thời gian tuyến tính.

–   Những chi tiết ngẫu nhiên của hiện thực chiến trường được gợi ra từ những dòng hồi tưởng, liên tưởng đến quá khứ, khi gần khi xa, từ chuyện này sang chuyện khác hết sức tự nhiên. Nhà văn phải thành thạo tâm lí ngôn ngữ nhân vật mới có thể trần thuật theo phương thức này.

2. Tác phẩm kể chuyện một gia đình nông dân Nam Bộ, truyền thống nào đã gắn bó những con người trong gia đình với nhau?

Truyền thống đánh giặc của gia đình đã gắn bó những con người trong dòng máu.

–   Truyền thống yêu nước mãnh liệt, căm thù bọn xâm lược ngùn ngụt và tinh thần chiến đấu cao đã gắn kết những con người trong gia đình với nhau. Lời chú Năm: “Chuyện gia đình nó cũng dài như sông, đế rồi chú chia cho mỗi đửa một khúc mà ghi vào đó”, con là sự tiếp nối cha mẹ nhưng không chỉ là tiếp nối huyết thống mà còn là sự tiếp nối truyền thống. Đồng thời muốn hiểu về những đứa con phải hiểu ngọn nguồn sinh ra nó, phải hiểu về truyền thống gia đình nó.

–   Chú Năm: đại diện cho truyền thống và lưu giữ truyền thống (trong câu hò, trong cuốn sổ).

–   Má Việt cũng là người hiện thân của truyền thống. Đó là một con người chắc, khỏe, sực mùi lúa gạo và mồ côi, thứ mùi của đồng áng, của cần cù sương nắng.

Ấn tượng sâu đậm ở má Việt là khổ nâng cắn ràng ghìm nén đau thương để sống và duy trì sự sống, che chở cho đàn con và tranh đấu.

3. Phân tích và so sánh tính cách các nhân vật Việt và Chiến để làm rõ sự tiếp nối truyền thống gia đình của những người con.

Chiến và Việt là thế hệ tiếp nối cùa dòng sông truyền thống của gia đình. Người mẹ ngã xuống nhưng dòng sông truyền thông vẫn chảy:

*  Hình tượng người mẹ luôn hiện về trong Chiến:

–   Chiến mang vóc dáng của má: “hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng… thân người to và chắc nịch”. Đó là vẻ đẹp của những con người sinh ra để gánh vác, để chống chọi, để chịu đựng và để chiến thắng.

–   Chiến đặc biệt giống má ở cái đêm sắp xa nhà đi bộ đội. Chiến biết lo liệu, toan tính việc nhà y hệt má (nói nghe ìn như má vậy). Hình ảnh người mẹ như bao bọc lấy Chiến, từ cái lối nằm với thằng út em trên giường ở trong buồng nói với ra đến lồ hứ một cái “cóc’“ rồi trỏ mình. Đến nỗi chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi trong đêm, Việt đã không dưới ba lần thấy chị giống như má, có khác là ở chỗ chị “không bẻ tay rồi đập vào bắp vế than mỏi” mà thôi. Chính Chiến cũng thấy mình trong đêm ấy đang hòa vào trong mẹ: “Tao cũng đã lựa ý nếu má còn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy.“ Nguyễn Thi muốn cho ta hiểu rằng: trong cái thời khắc thiêng liêng ấy, người mẹ luôn trong lòng những đứa con.

*  Nét tính cách chung của hai chị em.

–   Hai chị cũng cùng sinh ra trong một gia đình chịu nhiều mất mát đau thương (cùng chứng kiến cái chết đau thương của ba và má).

–   Hai chị em có chung mối thù với bọn xâm lược. Tuy còn nhỏ tuổi, chí căm thù đã thôi thúc hai chị em cùng một ý nghĩ: phải trả thù cho ba má và có cùng nguyện vọng: được cầm súng đánh giặc.

–   Tình yêu thương là vẻ đẹp tâm hồn của hai chị em. Tình cảm này được thể hiện sâu sắc và cảm động nhất trong cái đêm chị em giành nhau ghi tên tòng quân và sáng hôm sau trước khi lên đường nhập ngũ cũng khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm.

–   Cả hai chị em đều là những chiến sĩ gan góc dũng cảm. Đánh giặc là niềm say mê lớn nhất của hai chị em Việt và Chiến cũng là của tuổi trẻ miền Nam trong những năm tháng ấy: “Hạnh phúc của tuổi trẻ là trên trận tuyến đánh quân thù”

–   Hai chị em Việt đều có những nét ngây thơ, thậm chí có phần trẻ con (giành nhau bắt ếch nhiều hay ít, giành nhau thành tích bắn tàu chiến giặc và giành nhau ghi tên tòng quân).

*  Nét riêng ở Chiến:

–   Hơn Việt chừng một tuổi nhưng Chiến người lớn hơn hẳn: Chiến có thể bỏ ăn để đánh vần cuốn sổ gia đình. Chiến không chỉ “nói in như má” mà còn học được cách nói “trọng trọng” của chú Năm…

–   Tính cách “người lớn” ở Chiến còn thể hiện ở sự nhường nhịn. Tuy có lúc giành nhau với em: tranh công bắt ếch, đánh tàu giặc, đi tòng quân nhưng bao giờ cô cũng nhường em hết, trừ việc đi tòng quân.

Nguyễn Thi đã xây dựng nhân vật Chiến vừa có cá tính vừa phù hợp với lứa tuổi, giới tính. Chiến là nhân vật được hiện lên qua hồi tưởng của Việt nhưng đã gây được ấn tượng sâu sắc.

*  Nét riêng của Việt:

–   Nếu Chiến có dáng dấp của một người lớn thực sự thì ở Việt là sự lộc ngộc, vô tư của một cậu con trai đang tuổi ăn tuổi lớn.

–    Chiến nhường nhịn em bao nhiêu thì Việt hay tranh giành với chị bấy nhiêu.

–    Đêm trước ngày ra đi, Chiến nói với em những lời nghiêm trang thì Việt lúc “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, lúc lại rình “chụp một con đom đóm úp trong lòng tay”.

–   Vào bộ đội, Chiến đem theo tấm gương soi còn Việt lại đem theo một chiếc súng cao su.

–  Nhưng sự vô tư không ngăn cản Việt trở thành một anh hùng (ngay từ bé Việt đã dám xông vào đá thằng đã giết cha mình. Khi trở thành một chiến sĩ, mặc dù chỉ có một mình, với đôi mắt không còn nhìn thấy gì, với hai bàn tay đau đớn, Việt vẫn quyết tâm ăn thua sống mái với quân thù).

Nhân vật Việt là một thành công lớn trong cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Thi. Tuy còn hồn nhiên và còn nhỏ trước chị nhưng trước kẻ thù Việt lại vụt lớn, chững chạc trong tư thế của một người chiến sĩ.

4. Phân tích những biểu hiện của khuynh hướng sử thi trong đoạn trích này?

–   Chất sử thi của thiên truyện được thể hiện qua tính chất ngợi ca truyền thống lớn của một dân tộc, thể hiện trong truyền thông một gia đình.

–   Cuốn sổ là lịch sử gia đình, qua đó thấy lịch sử của một đất nước, một dân tộc trong cuộc chiến chống Mĩ

–   Số phận của những đứa con, những thành viên trong gia đình cũng là số phận của nhân dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ khốc liệt.

Truyện của một gia đình dài như dòng sông còn nối tiếp: “Trăm dòng sông đổ vào một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm… rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta…”. Truyện kể về một dòng sông nhưng nhà văn muốn ta nghĩ đến biển cả. Truyện về một gia đình nhưng ta lại cảm nhận được cả một Tổ quốc đang hào hùng chiến đấu bằng sức mạnh sinh ra từ những đau thương.

–   Mỗi nhân vật trong truyện đều tiêu biểu chọ truyền thống, đều gánh vác trên vai trách nhiệm với gia đình, với Tố quốc trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Tất cả các nhân vật đều có phẩm chất của những người anh hùng:

+ Căm thù giặc sâu sắc

+ Gan góc, dũng cảm, khao khát được chiến đấu giết giặc

+ Giàu tình nghĩa, rất mực thủy chung, son sắt với cách mạng và quê hương

Thiên truyện là một bài ca ca ngợi truyền thống đấu tranh bất khuất của những người nông dân Nam Bộ nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.

II. Luyện tập

Phân tích đoạn đối thoại giữa Việt và Chiến trước ngày nhập ngũ? Tính cách của hai nhân vật thể hiện như thế nào qua đoạn đối thoại này?

–   Phân tích đoạn đối thoại:

+ Nội dung: bàn về chuyện gửi bàn thờ ba má sang cho chú Năm; cho chi bộ mượn đất, cho lớp học mượn nhà…

+ Cách thức bàn chuyện: hồn nhiên, chất phác, hết lòng vì sự nghiệp đánh giặc.

Có ý kiến cho rằng: “Nguyễn Thi là nhà văn của những người nông dân Nam Bộ” trong thời kì ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Hãy làm sáng tỏ nhận định trên – Ngữ Văn 12

Chúng ta đã được học và đọc những tác phẩm cùa Nguyễn Thi viết về đề tài người nông dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Trong các tác phẩm ấy, Nguyền Thi đã tỏ ra xứng đáng là nhà văn của người nông dân Nam Bộ. Nhà văn thật sự gần gũi với người nông dân, đã phản ánh và thể hiện đúng phẩm chất, tính cách của người nông dân Nam Bộ trong thời kì ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình là một minh chứng cho nhận định đó.

Nguyễn Thi sinh ra ở Hải Hậu (Nam Định), nhưng có mối duyên ràng buộc với vùng đất Nam Bộ và trở thành cây bút nói lên tiếng nói tâm tình của miền nắng gió. Sau những năm tháng lăn lộn ở Sài Gòn kiếm sống, được tập kết ra Bắc, rồi lại trở vào Nam sát cánh cùng nhân dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến. Nguyễn Thi đã có một vốn hiểu biết sâu sắc, có sự đồng cảm và gắn bó máu thịt với vùng đất sông nước này.

Truyện Những đứa con trong gia đình kể về sự tiếp nối của nhiều thế hệ khác nhau trong một đại gia dinh, cùng một chí nguyện đánh giặc, hết giặc Pháp đến giặc Mĩ. Thế hệ trước hết là ba má của Chiến, Việt, và chú Năm, sau đó là chị em Chiến và Việt… ở mỗi thế hệ đều ghi dấu ấn riêng và truyền thống của gia đình.

Những đứa con trong gia đình ấy, đầu tiên là ba, má, chú Năm. Người còn, người mất, nhưng họ chính là đại diện cho truyền thống đẹp đẽ của cha ông. Trong gia đình ấy, nhiều người đã chết vì bị giặc giết, còn lại chú Năm – một người “đi đây đi đó nhiều”, và đặc biệt là “cũng ham sông ham bến”. Chú Năm chính là cuốn gia phả sống của gia đình, là đại diện cho truyền thống gia đình đánh giặc.

Trong cả truyện, chỉ có chú Năm là hay hò nhất. Chú Năm hò không hay, bởi vì “giọng hò ấy đã đục và tức như gà gáy”, mỗi khi chú cất giọng thì chị em Chiến đều bịt miệng cười. Mỗi khi cất giọng “đôi mắt chú mở to, đọng nước, nhìn thẳng vào mắt Việt, đầu chú lắc lư, nhắn nhủ, làm như Việt chính là nơi cụ thể để chú gửi gắm những câu hò đó… Và chú chỉ cất giọng hò khi chú kể sự tích gia đình và cuối câu chuyện thế nào chú cũng hò lên mấy câu, những câu nói về cuộc đời cơ cực của chú và những chiến công của đất này”. Theo tiếng hò của chú, khi thì Việt biến thành tấm áo vá quàng hoặc con sông dài cá lội của chú, khi thì Việt biến thành người nghĩa quân Trương Định. ngọn đèn biển Gò Công hoặc ngôi sao sáng ở Tháp Mười”. Qua những hình ảnh như “tấm vá quàng”, “sông dài cá lội”… trong câu hò, người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công ấy đã nhắc nhở con cháu nhớ về ngọn nguồn, về hồn thiêng sông núi của cha ông bốn nghìn năm nay.

Cùng với tiếng hò, chú Năm còn tạo nên ấn tượng cho người đọc bởi chi tiết: chú có một cuốn sổ – đó là biên niên sử của cả gia đình. Cuốn sổ đặc biệt ấy lại được ghi bằng một thứ chữ cũng đặc biệt không kém. “Chữ chú lòng khòng vì hồi đi đánh Tây, chú mới được học”. Cuốn sổ còn đặc biệt vì nó được chép bằng lời văn mộc mạc, nó ghi lại cả việc “thím Năm bị bắn bể xuồng khi rọc lá chuối”, chết còn mặc quần mới, trong túi còn hai đồng bạc”, hay chuyện ông nội ra nằm giàn bò bị lính bắn chết… Rồi cặn kẽ hơn nữa, ngày bà nội bị chúng đánh: chính xác, cặn kẽ đến mức đánh ba roi… chú gọi đấy là những việc “thỏn mỏn”, nhưng đó chính là những bằng chứng xác thực nhất về nợ máu của kẻ thù đối với vùng đất và con người chốn này. Cuốn sổ ấy, với chú Nàm là một bảo vật, chú cất giữ rất kĩ càng, để truyền lại cho các thế hệ sau.

Bên cạnh chú Năm là má của Chiến và Việt, một người phụ nữ mà cả cuộc đời dành cho chồng con và cho cách mạng. Đó là một người mẹ có vẻ đẹp mạnh mẽ. “Cái gáy đó, đôi vai lực lưỡng, chiếc nón rách, tâm áo bà ba đẫm mồ hôi chồng hoạt động cách mạng, bị chặt đầu nhưng má cố kìm nén không để rơi nước mắt: ‘‘Chiều hôm ấy, về tới nhà má mới khóc… Bao nhiêu năm sau đó cũng vậy, lúc nào nói đến chuyện trên, má cũng không khóc”. Mà nếu có lệ ứa ra thì “má chỉ nằm khóc chứ không kể lể chi hết”. “Ba mày bị Tây chặt đầu, tao cứ đi theo cái thằng xách đầu mà đòi. Đi từ ấp trong đến ấp ngoài, nó qua sông tao cũng qua, nó về quận tao cũng tới. Một tay tao bồng em mày, một tay cắp rổ…”. Câu chuyện về cái chết của người thân yêu trong gia đình cũng được kể bằng các giọng thật hồn nhiên.. Sự yêu thương, tình nghĩa đối với người phụ nữ ấy cũng được thể hiện một cách đau đớn, và mạnh mẽ dường ấy. Một người vợ tay bồng con, tay cắp rổ đi theo giặc để đòi đầu chồng. Một người mẹ dám hiên ngang không ai sinh ra là để đương đầu với hiện thực khốc liệt của xứ này. Nguyễn Thi đã tạo nên một hình tượng bình thường mà rất lạ về người mẹ mộc mạc, chất phác, mạnh mẽ ở một vùng đất có quá nhiều thử thách khốc Liệt.

Người mẹ ấy cuối cùng cũng ngã xuống vì bom đạn của kẻ thù, của chiến tranh tàn bạo. Truyền thống của gia đình lại được bồi thêm một dòng máu nóng của tinh thần chống giặc ngoại xâm.

Trong thế hệ hiện tại của gia đình có Chiến và Việt – những đứa con nối tiếp truyền thống vẻ vang của gia đình. Chiến có vóc dáng giống mẹ: “hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng”, và thân hình thì “to và chắc nịch”. Chiến không chỉ giống mẹ ở hình thức bên ngoài mà còn ở cả tính cách mạnh mẽ, xốc vác. Nói đến giống má, thì không có chỗ nào Chiến giống má như cái đêm hai chị em bàn tính việc nhà để đi bộ đội. Từ câu nói khẳng khái với chú Năm: “Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn, thì tao mất, vậy à”, đến những tính toán để lo sao cho chu đáo việc nhà; từ việc gửi bàn thờ má, thằng út sang nhà chú Năm cho đến việc chi bộ mượn nhà, bàn ghế để mở lớp học; từ việc hôm nay, chị Chiến cũng ở nằm ở buồng trong với thằng Út nói ra cho đến cái “cóc” rồi trở mình. Đến nỗi có tới ba lần Việt thấy chị Chiến giống y như má. Chính chị Chiến đêm nay dường như đang hòa vào trong mẹ: “Tao lựa ý nếu má còn sống, chắc má cũng tính vậy”… trong cái thời điểm linh thiêng ấy. người mẹ hiện diện rõ nét, nhất trong những đứa con của mình: “Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến thành đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa cầm nón quạt”.

Chiến giống má, đó là điều không ai phủ nhận, nhưng trong dòng chảy của dòng sông gia đình, chị là khúc sông sau, mà khúc sông sau bao giờ cũng thế, cũng đi xa hơn, chảy xa hơn. Chiến khác mẹ không phải là ở chiếc giường ở trong túi mà trong tưởng tượng của Việt, nó theo Chiến ra tận chiến trường cũng không phải là cái dáng trẻ trung “kẹp một nhúm tóc mai bó vào miệng”, hay tính thích cười. Người mẹ trước nỗi đau mất chồng chỉ biết kìm nén, nuốt vào sâu thẳm tâm hồn những đau đớn mất mát. Chiến không thể trưởng thành, Chiến đi bộ đội để trả thù nước, đòi nợ nhà với một quyết tâm sắt đá: Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã là thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à”… Với người con gái ấy, yêu thương gắn liền với căm thù, và tình cảm ấy biến thành những hành động cụ thể là: giết giặc. cứu nước. Đó là lời thề sắt đá, là quyết tâm của cô gái trẻ, như chân lí sống đau khổ nhưng hào hùng của cả một thời đại.

Nhân vật trung tâm của truyện là Việt, cậu em trai còn mang nhiều nét tính cách trẻ con nhưng cũng là một đứa con rất đỗi tự hào trong gia đình có truyền thống đánh giặc.

Nét nổi bặt trong hình ảnh của Việt tạo nên ấn tượng trong lòng người đọc đó chính là cái vẻ “tộc ngộc”, vô tư cua một cậu con trai đang tuổi ăn tuổi lớn. Chiến nhường nhịn bao nhiêu thì Việt lại hay tranh giành bấy nhiêu. Việt tranh với chị từ việc ai bắt được ếch nhiều hơn để mồi lần chú Năm lại phải đứng ra để phân xử, cho đến việc ai được đi bộ đội trước. Trong cái đêm trang trọng trước khi đi bộ đội, mặc cho chị Chiến sắp xếp, tính toán, Việt lúc thì “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, lúc lại chụp một con đom đóm trong bàn tay”. Với cậu, đi bộ đội là mục đích lớn nhất đã được thỏa mãn thì bây giờ tất cả những việc khác dường như không đáng để lưu tâm. Cậu còn mang tính cách trẻ con ngay khi đã vào bộ đội. Chị Chiến mang đi cái gương, vật tùy thân của người con gái, thì Việt đi bộ đội nhưng lại mang một ná thun – một trò chơi của tuổi thơ.

Bên cạnh thành công trong việc xây dựng những tính cách điển hình của người nông dân Nam Bộ, truyện ngắn ngày còn có một thành công đặc sắc trong việc lựa chọn cách kể chuyện mà chúng ta thường gọi là nghệ thuật tự sự. Câu chuyện về gia đìah được thuật lại không phải hoàn toàn theo trật tự thời gian tuyến tính mà chủ yếu là theo nhịp dòng hồi tướng đứt đoạn của Việt khi Việt tỉnh dậy rồi lại ngất đi vì bị thương. Nguyễn Thi đã ý thức được điểm mạnh của lối trần thuật này. Nó có thế xóa nhòa những giới hạn của không gian và thời gian, nó có thể đi từ hiện tại về quá khứ trong dòng hồi tưởng của nhân vật.

Chẳng hạn, khi Việt tỉnh dậy lần thứ hai “lúc trời đã lất phất mưa. Tiếng máy bay tắt hẳn, chỉ còn hơi gió lạnh lùa trên má. Ếch nhái kêu dậy lên”. Tiếng kêu của ếch nhái dẫn Việt trở về với kỉ niệm của những ngày chưa đi bộ đội. Cứ trời dứt hột Việt đã cởi trần ra hai chị em hai cái đèn soi lóp ngóp đi. Cười từ lúc đi cho đến lúc về. Từ những tiếng ếch của đêm mưa, dòng hồi tưởng của nhân vật cứ miên man. Các nhân vật cứ thế xuất hiện, rất tự nhiên.

Cậu con trai mang cái vẻ tộc ngộc, vô tư đáng yêu ấy dám xông vào đá cái thằng đã giết cha mình. Lớn hơn một chút, Việt đã bắn cháy tàu của Mĩ trên sông Định Thủy, mà theo lời của chú Năm, để công bằng, chú đã ghi tên cả hai chị em trong chiến công đó. Đến khi đi bộ đội bị thương vào mắt, hai bàn tay đau đớn. nhưng Việt vẫn quyết tâm sống mái với kẻ thù: “Trên trời có mày, dưới đất có mày, khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”. Việt không chịu lùi bước, không chịu thất bại, mỗi khoảnh khắc đều là ý thức đương đầu sống chết với kẻ thù. Việt giản dị. tự nhiên như cánh đồng nước, con sông, cây cối của xứ sở này. Vậy nên, dù là đánh giặc hay đi bắt ếch hoặc bắn ná thun trong vườn chim, tất cả đều hồn hậu, chất phác, bình dị…

Những đứa con trong gia đình là câu chuvện của một gia đình cụ thể của đồng bào Nam Bộ, nhưng qua đó tác giả đã khái quát được không khí của cả một thời đại, một dân tộc trong hai cuộc kháng chiến trường kì chống Pháp và chống Mĩ. Ở đây, con người đã thích nghi với hoàn cảnh chiến trường, và điều đáng quý là họ không bao giờ chịu khuất phục, dẫu có phải hi sinh nhiều thế hệ nhưng vẫn một lòng một dạ kiên trung, quyết đánh giặc đến hơi thở cuối cùng.

Qua sự hồi tưởng của nhân vật, gợi lại những câu chuyện đời thường của một gia đình có truyền thống đánh giặc. Nguyễn Thi muốn phản ánh và ngợi ca tinh thần bất khuất, truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta nói chung và đồng bào Nam Bộ nói riêng. Trong tác phẩm, truyền thống ấy được thể hiện một cách đặc trưng qua tính cách của những người nông dân Nam Bộ trong cuộc chiến ác liệt chống giặc Mĩ. Họ “hồn nhiên, vui đời, bộc trực nhưng căm thù ngùn ngụt đối với quân cướp nước – những con người vô cùng gan góc, dường như sinh ra để cầm súng giết giặc, sẵn sàng chết vì quê hương mình, vì đồng bào mình”.

Phân tích nhân vật Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình – Ngữ Văn 12

DÀN BÀI

I. MỞ BÀI

Truyện Những đứa con trong gia đình là một số những tác sáng tác xuất sắc nhất của Nguyễn Thi. Thiên truyện thành công ở nhiều mặt, nhưng nổi bật nhất là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Tác giả đã giành nhiều trang miêu tả những nét tính cách độc đáo của Việt, nhân vật trung tâm đã tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.

II. THÂN BÀI

Truyện Những đứa con trong gia đình được kết cấu theo những đợt hồi tưởng của người lính trẻ tên Việt bị trọng thương, thất lạc đồng đội trong mây ngày đêm. Diễn biến truyện hết sức linh hoạt xáo động không gian lẫn thời gian, chéo quá khứ với hiện tại, trong đó nhân vật Việt hiện lên với đầy đủ các về tính tình, tình cảm, và tinh thần chiến đấu.

1. Tính tình hồn nhiên, thú vị

Là một chiến sĩ trẻ, Việt vẫn giữ tính hồn nhiên của một thằng trai mới lớn. Việt luôn luôn giữ trong mình cái ná thun mà từ nhỏ Việt đã từng bắn chim. Còn hiện tại, Việt cầm súng tự động, bả súng còn thơm gỗ, đánh Mĩ bằng lê, ná thun vẫn còn nằm gọn trong túi áo.

– Bị thương nặng đến đêm thứ hai, trong bóng đêm vắng lặng và lạnh Việt không sợ chết mà lại sợ bóng đêm và sợ ma.

– Việt rất yêu thương chị Chiến nhưng hay tranh giành với chị, từ những đêm soi ếch ngoài ruộng đến việc lập chiến công. Soi ếch thì chú Năm đứng ra phân xử vì chị Chiến và Việt ai cũng giành phần nhiều là của minh, chị Chiến bao giờ cũng thương Việt. Sau này lớn lên, vết đạn bắn thằng Mĩ trên sông Định Thuỷ, chị cũng nhường…

– Rồi đến đêm mít-tinh ghi lên lòng quân, hai chị em cùng tranh giành đi bộ đội, thật cảm động.

– Ở đơn vị, Việt rất yêu quý đồng đội nhưng không nói thật là mình có Việt dấu chị như giấu của riêng vậy. Cậu sự mất chị mà!

2. Tình thương yêu gia đình sâu đậm

a) Vốn mồ côi, chị Hai ở xa, đứa em út còn nhỏ, tình cảm thương yêu Việt đối với chị thật sâu đậm. Sau khi cùng ghi lên vào bộ đội, sắp xếp việc xong. Việt và Chiến cùng khiêng bàn thờ má gởi sang nhà chú Năm. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bình bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thế rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai.

b) Ngoài tình thương chị, Việt còn rất thương mến chú Năm. Tình cảm hình thành từ những ngày Việt đang còn nhỏ. Việt thương chú Năm vì hồi đó hay bênh Việt. Mỗi khi cất giọng hò, chú làm như Việt chính là nơi cụ thể đế gởi gắm những câu hò đó. Theo từng hình ảnh liên tưởng của chú Năm, có Việt biến thành tấm áo và quàng hoặc con sông dài cá khi thì Việt thành người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển gò Công hoặc ngôi sáng ở Tháp Mười.

c) Trong lúc Việt bị thương, hình ảnh cuả cha mẹ thân yêu luôn chập chờn ẩn hiện trong hồi ức của Việt với bao kỉ niệm chua xót lẫn ngọt ngào. Dường như cuộc đời vất vả của má, mọi ý nghĩ lặng lẽ trong đêm của má. cả những hiểm nguy gian lao của má đã trải qua một cách không hề sợ hãi, tất cả đều được gom và dồn lại vào trong ý nghĩ cuối cùng này: “Để má ráng nuôi bây lớn coi bây có làm được gì cho cha mày vui không? ”

3.Tính cách anh hùng, tinh thần chiến đấu dũng cảm

a) Phải sống chiến đấu như thế nào, trả thù nhà, đền nợ nước sao cho xứng đáng là những đứa con trong một gia đình có truyền thống yêu nước, gắn bó với cách mạng từ thời chống Pháp đến thời chống Mĩ ?… Việt đã chiến đấu bằng tất cả sức mạnh thể chất lẫn tinh thần, bằng ý chí bất khuất thừa hưởng từ một gia đình cách mạng. Ông nội của Việt, chú Năm, ba Việt đều tham gia kháng chiến chống Pháp. Cha bị Tây chặt đầu, mẹ bị trúng pháo của giặc, những hình ảnh thê thảm đó mãi in sâu trong tâm trí Việt. Chính mối thù nhà là động lực tinh thần và tình cảm thúc đẩy chị em Việt anh dũng chiến đấu.

b) Giữa trận đánh. Việt bị thương nặng. Mất liên lạc với đồng đội, trơ trọi một thân, chịu đói chịu khát, mình đầy thương tích, Việt vẫn can đảm chịu đựng, Việt mới cảm thấy chân tay tê dại, khắp người, nước hay máu không biết, chỗ ướt sùng, chỗ dẻo quẹo, chỗ khô cứng (,..)Trời tối kì lạ Việt cho mũi lê đi trước, rồi tới hai cùi tay, hai cái chân nhức nhối cho nó đi sau cùng. Sau đó, Việt bò gấp qua những cái gì nữa Việt không cần biết, quên khắp cả người đang bị rì máu, quên cả trận địa sắt thép ngổn ngang mà một cành cây nhỏ đụng vào người Việt bây giờ cũng làm nặng thêm thương tích.

c) Dù lúc tỉnh lúc mê, Việt vẫn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu mỗi khi choàng dậy, Việt day họng súng về hướng đó “Nếu mày đổ quân thì súng tao còn đạn”, Việt ngầm bảo bọn địch khi nghe tiếng xe bọc thép của chúng chạy mỗi lúc một gần.

– Tỉnh dậy lần thứ tư giữa đêm sâu thẳm, nghe tiếng súng đồng đội từ nơi xa, Việt vẫn cố gắng bò về hướng đó. Việt đã cố gắng bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi tay của người theo. Việt cũng không ý thức răng mình đang bò đi, mà chính trận đánh đang gọi Việt đến.

– Cuối cùng, đồng đội đã tìm được Việt. Dù kiệt sức, Việt vẫn giữ tư thế sẵn sàng chiến đấu sinh tử với kẻ thù: một ngón tay của cậu vần còn nhúc nhích, một viên đạn đã lên nòng và chung quanh cậu, dấu xe bục thép cồn nằm ngang dục. Hình ảnh người lính bị thương vẫn giữ tư thế sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng đã thể hiện được tính cách anh hùng của nhân vật.

III. KẾT BÀI

Nguyễn Thi đã miêu tả nhân vật một cách sắc nét, từ tính tình, tình cảm tinh thần chiến đấu, không bằng những sắc màu ưtrng lệ mà qua hàng loạt hình ảnh sống thực, hồn nhiên đầy cảm động. Với ngôn ngữ mang màu sắc Nam Bộ những chi tiết về dáng cách, cử chỉ, lời nói của nhân vật, phát huy tối đa lời thoại nội tâm, những độc thoại khi đứt khi nối tưởng chừng như rời rạc nhưng thật chặt chẽ, truyện đã khắc hoạ hình tượng của một nhân vật tuổi trẻ anh hùng, đại biểu cho thế hệ thanh niên miền Nam anh hùng trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.

Ý nghĩa chi tiết khiêng bàn thờ má – Ngữ Văn 12

– Không khí thiêng liêng đã biến Việt trở thành người lớn: “lần đầu tiên Việt thấy rõ lòng mình”, “Việt thấy thương chị lạ”, cảm thấy được trách nhiệm lớn lao của mình vì mối thù với thằng Mỹ “đang đè nặng trên vai”.

– Bàn thờ má còn là chứng tích tội ác do bọn giặc Mỹ tàn ác để lại, là động lực thúc đẩy chị em Việt ra đi đánh giặc để trả thù nhà, đền nợ nước.

– Hình ảnh còn có ý nghĩa tượng trưng, thể hiện sự trưởng thành của hai chị em là có thể gánh vác việc gia đình và viết tiếp khúc sông của mình trong dòng sông truyền thống gia đình. Hơn thế nữa, thế hệ sau cứng cáp, trưởng thành hơn và có thể đi xa hơn.

– Hình ảnh này còn là hình ảnh lãng mạn “ở tạm bên nhà chú” và đến khi “nước nhà độc lập con lại đưa má về”, đây là giai đoạn kháng chiến chống Mỹ ác liệt, nhưng Nguyễn Thi vẫn mang một niềm tin vào tương lai tất thắng.

Màu sắc Nam Bộ trong truyện Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Ngữ Văn 12

Truyện Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi là khúc tráng ca của tuổi trẻ miền Nam anh hùng thời đánh Mĩ.

Một trong những nét đặc sắc về nghệ thuật là Nguyễn Thi đã tạo nên màu sắc Nam Bộ, một dấu ấn tuyệt đẹp mà độc giả dễ dàng nhận thấy.

Màu sắc Nam Bộ biểu hiện rõ nhất là ở cảnh vật được miêu tả, ở sự việc được nói đến, ở tính cách và ngôn ngữ nhân vật được khắc họa (má Tư Năng, chú Năm, chị Chiến, Việt..).

Cảnh tượng chiến trường ở nơi nào, ở thời nào chẳng giống nhau, những dưới ngòi bút của Nguyễn Thi, chiến trường sau tiếng bom rền đạn réo lại có nét riêng, rất Nam Bộ. Giữa đồng không mông quạnh “một sự vắng lặng như từ trên trời lao xuống.. ”, “tiếng dế gáy u u cao vút mãi lên” giữa đêm sâu thăm thẳm. Chính giữa không gian ấy, người chiến sĩ bị thương nặng, lạc đơn vị mới cảm thấy rõ nhất mình đang trở về ki niệm tuổi thơ, mình đang sống giữa quê hương (một nơi trên vùng đồng bằng Nam Bộ): “Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao trùm lẩy Việt, kéo theo đến cả con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vòm sông, cái mà Việt vẫn nghe các chị nói hồi ở nhà, Việt nằm thở dốc…”.

Ngôi nhà má Tư Năng cũng như hàng ngàn hàng vạn mái nhà của bà con khắp vùng Hậu Giang, Tiền Giang, Bạc Liêu, Bến Tre… ở cạnh các vàm, các kênh, bao trùm bởi màu xanh của rặng bần, của khóm đước, mà người Bắc rất dễ nhận ra: “Nhà day cửa ra sông, trong đêm vui náo nức này, đom đóm từ ngoài rặng bần cũng kéo vào đầy nhà. Chúng bay chớp chớp như dò trên nóc rồi sà xuống mặt Việt”.

Màu sắc Nam Bộ được thể hiện ở những vật dụng, ở cái gia tài của má Tư Năng để lại. Đó là “năm công ruộng hồi trước mấy chú cấp cho ba má”, là “hai công mía để dành làm đám giỗ ba má”, là những thứ làm ăn của nhà nông nghèo khó, lam lũ: chén, đĩa, cuốc, vá, đèn soi mà chị em Việt sẽ gửi lại chú Năm, trước khi đi đánh giặc.

Cảnh đêm tòng quân của tuổi trẻ vùng đồng bằng Nam Bộ vui như ngày hội, bà con cô bác cả xã kéo đến, “dàn sáng rực”, hai chị em Chiến và Việt tranh giành nhau, làrn cho anh các bộ “đã cầm viết rồi lại dật xuống”, chú Năm phải “nheo mắt nhìn “ đứng ra phân xử: “Hai đứa cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy. tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cả hai. Việc lớn là tính theo việc lớn, còn việc thỏa mọn trong nhà tôi thu xếp khác xong”. Đó là tầm lòng, là ý nghĩ là cách nói chất phác cùa bà con cô bác nơi miệt vườn vùng đồng bằng sông Cứu Long.

Cảnh hỗn chiến giữa ta và giặc, cảnh tấn công như vũ bão của quân ta qua sự lắng nghe, sự cảm nhận của Việt vừa hồi tỉnh sau cơn mê cũng mang nét rất riêng của Nam Bộ thời đánh Mĩ: “Việt ngóc dậy. Rõ ràng không phải tiếng pháo lềnh lãng của giặc. Đó là tiếng nổ quen thuộc, gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dàn súng nổ vô hồi vô tận. Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng mõ và tiếng trống đình đánh dậy trời đất hồi Đồng khởi”.

Màu sắc Nam Bộ được thế hiện rõ nhất ớ tính cách và ngôn ngữ của các nhân vật như má Tư Năng, chú Năm của Chiến, Việt.

Hình ảnh má Tư Năng dẫn đàn con đi đòi đầu ba, hình ảnh má Tư Năng hiên ngang, thách thức: “Vợ Tư Năng đây!” khi đứng trước mũi súng và lời hăm dọa của lũ giặc: “Vợ Tư Năng đâu?’’. Bọn lính bắn vọt qua đầu má, má đưa hai bàn tay to bản phủ lên đầu đàn con dang nép dưới chân. Má chèo xuồng, mà đi làm thuê, mà đi đấu tranh chính trị, má coi thường cái chết, vì má tin một cách mộc mạc, giản dị rằng “người chết có cái vui của người chết, nếu không, người ta sanh con làm gì?” Hình ảnh má Tư Năng làm ta nhớ đến câu nói: “Còn cái lai quần cùng đànlì” cùa chị út Tịch trong Người mẹ cầm súng.

Cái cuốn sổ ghi bao việc “thỏn mỏn” trong gia đình bằng thứ chữ “lòng vòng” Chuyện thím Năm. Ông nội, bác Hai, tía của Việt… bị giặc giết như thế nào, các chiến tích của ông nội, của thằng Hai, của chị em Việt, chú đều ghi rõ. Cuốn sổ ấy là truyền thống cách mạng của gia đinh má Tư Năng, cũng là của hàng vạn gia đình nông dân Nam Bộ trong suốt ba mươi năm trời đánh Pháp, đánh Mĩ.

Nguyễn Thi có tài sử dụng một số chi tiết nghệ thuật bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, nâng lên tầm khái quát, tô đậm màu sác Nam Bộ. Tiếng hò của chú Năm là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc, độc đáo của Nguyễn Thi tạo dựng nên giọng hò cùa chú Năm “đục và tức như gà gáy”. Đã nhiều lần chú cất giọng hò. Trước bữa cúng má Tư Năng, chị em Việt Chiến sắp lên đường ra trận, chú Năm cất giọng hò: “Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngất lại như một lời thề dữ dội”.

Chị Chiến giống má như đúc. Chiến cũng có hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng như má. Tiếng “cóc”, tiếng “nghen”, tiếng “ừ”, tiếng chân bước “bịch bịch ” của Chiến có khác nào má, “in như má vậy”. Bàn việc thu xếp nhà cửa trước khi đi đánh giặc, nghe em nói, Chiến “hứ một cái “cóc” rồi trở mình. May mà chị không bẻ tay rồi đập vào bấp vế than mỏi” như má. Chiến đảm đang, sớm biết lo liệu, thường nhường nhịn em, chú Năm đã hết lời ca ngợi: “Không! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non”. Chiến có tư thế hiêng ngang, quyết liệt như các o du kích vườn dừa Bến Tre: “Đã làm thân con gái ra đi thi tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à”.

Việt là hình ảnh đẹp nhất, in đậm màu sắc Nam Bộ nhất trong truyện Những đứa con trong gia đình. Nụ cười “lỏn lẻn”, hai gò má “cũng mướt như da trái vú sữa”, cái ná thun của tuổi thơ vẫn mang theo khi đi bộ đội, Việt rất giống ba. Mỗi lần nghe tiếng ná thun của Việt, má Việt lại nói: “Đó, lại giống cái thằng cha nó rồi!”. Việt hồn nhiên, trong sáng hay tranh giành với chị, nhưng lại “giấu chị như giấu của riêng’’ trước đồng đội. Dũng cảm trong chiến đấu, không sợ giặc nhưng lại sợ “thằng chỏng thụt lưỡi”, ‘‘con ma cụt đầu”… Mới hai tuổi xuân đã lập công tièu diệt một xe bọc thép Mĩ; bị trọng thương, lạc đơn vị, nằm giữa chiến trường, tuy chỉ còn một viên đạn đã lên nòng. Việt “vẫn sẵn sàng nổ súng”, “Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”… Hình ảnh Việt theo má lên tới quận “đòi đầu ba”, hình ảnh Việt trong đêm tòng quân, trong cảnh cùng chị gái khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm đã làm ta nhớ mãi, nhớ đứa con trai má Tư Năng, nhớ một chàng trai mới lớn vùng miệt vườn đồng bằng sông Cửu Long thời chống Mĩ. Việt là hình bóng của quê hương; Việt là hiện thân trong câu hò của chú Năm: “… khi thì Việt biến thành tấm áo vá hoặc con sông dài cá lội của chú, khi thì Việt biến thành người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công, hoặc ngôi sao sáng ờ Tháp Mười”.

Thời chống Mĩ, tuồi trẻ cả nước ta nung nấu một lời thề: “Ra đi chỉ một lời thề – Chưa giết hết giặc chưa về quê hương”. Việt và chị gái khi khiêng bàn thờ má đi gửi cũng đinh ninh một lời thề: “Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh gíặc trả thù cho ba má, đến chừng nào nước nhà độc lập, con lại đưa má về”.

“Những đứa con trong gia đình” đã kết tinh nghệ thuật của ngòi bút Nguyễn Thi. Nghệ thuật kể chuyện, dựng cảnh, tạo hình, chọn chi tiết điển hình, phân tích tâm lí nhân vật, cá biệt hóa ngôn ngữ nhân vật… tất cả đều mang màu sắc và hương vị Nam Bộ. Màu sắc Nam Bộ tạo nên hồn cốt phong cách ngôn ngữ nghệ thuật cúa Nguyễn Thi trong Người mẹ cầm súng và Những đứa con trong gia đình.

Sự thành công đó đã khẳng định vị thế được tôn vinh của Nguyễn Thi là “nhà văn của người nông dân Nam Bộ thời chống Mĩ ”.

Phân tích điểm giống và khác nhau giữa hai chị em Việt – Chiến trong truyện “Những đứa con trong gia đình” – Ngữ Văn 12

1.Mở bài

– Giới thiệu khái quát về tác phẩm: “Những đứa con trong gia đình” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Thi. Thành công của truyện chủ yếu là nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật. Trong đó tác giả tập trung phần lớn ở hai nhân vật Việt và Chiến.

– Hai nhân vật có rất nhiều nết giống nhau vì họ la hai chị em ruột. Tuy nhiên ở mỗi nhân vật có nét riêng của mỗi người.

2.Thân bài

a. Những nét tính cách chung

– Thương cha thương mẹ, căm thù giặc sâu sắc, cùng một ước nguyện được cầm súng đánh giặc trả thù cho ba, má. Tình cảm này thể hiện rõ nhất trong đêm hai chị em giành nhau ghi tên tòng quân, cùng khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm “ đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về” “mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”.

– Hai chị em đều là những chiến sĩ dũng cảm, gan góc và từng lập được nhiều chiến công; bắn tàu chiến giặc, Chiến là tiểu đội trưởng của đội nữ địa phương. Việt thì tiêu diệt được một xe tăng địch trong một trận đánh giáp lá cà. Vì cha mẹ là dũng sĩ nên dường như họ sinh ra là để cầm súng đánh giặc.

– Hai chị em còn rất trẻ , hơn nhau 1 tuổi (chị 18, em 17). Vì thế ở hai nhân vật này có những nét rất trẻ con: chẳng hạn, tuy thương yêu nhau nhưng lại hay giành nhau, giành phần bắt ếch nhiều hay ít, giành nhau thành tích bắn tàu chiến Mĩ, giành nhau ghi tên tòng quân đánh giặc…

b. Những nét riêng giữa hai chị em:

– Tài nghệ của Nguyễn Thi trong xây dựng nhân vật là đã tạo ra những nét riêng của hai nhân vật này. Mỗi người một vẻ, không lẫn với nhau được. Những nét tính cách của Việt và Chiến xét đến cùng là do một người là gái, một ngưòi là trai, một người là chị, một người là em.

– Nhân vật Chiến có cái gan góc riêng của phụ nữ. Việt có thể dũng cảm trong chiến đấu nhưng không thể có cái gan kiên trì ngồi đánh vần cuốn sổ gia đình của chú Năm như Chiến. Việt hiếu động, chỉ thích bắt ếch, câu cá, bắn chim, lúc nào cũng có cái ná thun trong mình. Là chị nên Chiến tuy chưa hết tính trẻ con , có lúc cũng tranh với em, nhưng cũng có lúc lại biết nhường nhịn em, như khi tranh công bắt ếch. Tuy nhiên khi ghi tên tòng quân thì Chiến nhất định không nhường em.

Như vậy ở Chiến có sự hoà lẫn giữa tính trẻ con và niềm khát khao đánh giặc, có tấm lòng thương em của một người chị biết suy nghĩ chính chắn. Không chịu nhường em ở những nơi đạn bom nguy hiểm. Chiến là cô gái đảm đang tháo vát, sớm biết lo nghĩ. Vả lại cha mẹ mất cả, là ngưòi chị lớn, phải sớm làm chủ gia đình. Vì thế ở Chiến có cái gì đó tỏ ra khôn ngoan, già dặn trước tuổi. Điều này chính Việt đã nhận xét về chị trong cái đêm trước khi tòng quân “Chà, chị Chiến bữa nay nói in như má vậy!”. Bởi vì đây là giờ phút Chiến phải đứng ra thu xếp việc nhà chu đáo trước khi lên đường. Và chú Năm cũng khen khi Chiến trình bày ý kiến của mình “Khôn! việc nhà nó thu don được gọn thì việc nước nó được mở rộng…”. Ngoài ra Chiến là cô gái mới lớn nên bắt đầu thích soi gương, thích làm duyên làm dáng, đi đánh giặc mà vẫn có cái kiềng trong túi…

– Còn ở Việt thì trẻ con hơn, hiếu thắng. Vả lại là em nên không cần phải nhường nhịn ai. Công việc trong gia đình Việt đều phó mặc tất cả cho chị Chiến, nghe chị bàn việc gia đình thì cứ ừ ào cho qua, vừa nghe vừa “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay” “rồi ngủ quên lúc nào không biết”. Việt còn trẻ con quá nên đã đi bộ đội rồi mà vẫn dắt theo ná thun, yêu quý chị mà cứ giữ kín vì sợ mất chị, đánh giặc không sợ chết mà lại sợ ma, khi gặp lại đồng đội thì vừa khóc vừa cười…Tuy nhiên khi xung trận thì Việt là một chiến sĩ dũng cảm, tinh thần cảnh giác và chiến đấu rất cao.

3. Kết bài

– Tóm lại hai nhân vật Việt và Chiến đúng là có nhiều đức tính giống nhau, nhưng đồng thời lại là hai cá tính khác nhau. Tuy thế cả hai đều rất đáng yêu, dễ mến. Hai nhân vật để lại ấn tượng đậm nét trong lòng ngưòi đọc.

– Nhận xét: Nguyễn Thi rất tinh tế, sắc sảo trong bút pháp xây dựng nhân vật, tạo được sự lôi cuốn hấp dẫn người đọc.

Phân tích những điểm giống nhau và khác nhau của hai nhân vật Việt và Chiến trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Ngữ Văn 12 – Bài 2

Hy sinh với tư cách người chiến sĩ trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968, nhà văn Nguyễn Thi để lại một số lượng tác phẩm không nhiều. Tuy vậy, đó là những tác phẩm có giá trị, đặc biệt ở chỗ chúng ta góp phần khắc họa nên bức chân dung lớn của người nông dân Nam Bộ trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước vừa qua. Những nhân vật của Nguyễn Thi đều chân thật và gây nhiều ấn tượng, như trường hợp hai nhân vật chị em Chiến và Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình.

Việt và Chiến sinh ra trong một gia đình mang khá nhiều nét tiêu biểu của một gia đình Nam Bộ trong chiến tranh. Cuốn sổ gia đình do người chú ghi lại mà Chiến dùng để đánh vần tập đọc, thực ra là một cuốn gia phả đặc biệt, rất vắn tắt, ở đó mỗi dòng, thậm chí mỗi chữ, đều có máu và nước mắt. Đó là gia đình từ mấy thế hệ đã phải chịu nhiều mất mát, đau thương. Ngay ở thế hệ đã phải chịu nhiều mất mát, đau thương. Ngay ở thế hệ của chị em Chiến, chỉ trong khoảng mấy năm, lúc hai chị em vẫn còn là những đứa trẻ, họ đã phải liên tiếp mất cha rồi lại mất mẹ. Đường đời của hai chị em Chiến như đã được vạch sẵn chỉ có chiến đấu, giết giặc, để báo thù cho cha, cho mẹ, cũng là để tự bảo vệ chính cuộc đời của mình. Đó là truyền thống gia đình, đó cũng là khát vọng mãnh liệt nhất của hai chị em Chiến và Việt. Mang một mối thù sâu nặng với giặc và một khát vọng chiến đấu mãnh liệt như vậy, họ sẽ chiến đấu dũng cảm và sẽ chiến thắng, điều đó như một cái gì đã trở thành tất yếu.

Thật ra, để nói đến con đường tất yếu từ căm thù giặc đến thắng giặc đó. Nguyễn Thi có thể chỉ cần nói về Chiến mà không nói về Việt, hoặc ngược lại. Nhưng Nguyễn Thi đã miêu tả cả hai nhân vật ấy với nhiều nét rất riêng, rất đáng yêu, gây cho người đọc nhiều thú vị.

Việt là một chàng trai, rồi là một người lính dũng cảm, nhưng dẫu sao Việt cũng chỉ là một chàng trai mới lớn, và trong gia đình, thì Việt thực sự chỉ là một cậu bé. Cái trẻ con ở Việt không chỉ bộc lộ trong những nét hiếu động, suốt ngày thích bắt ếch, câu cá, bắn chim, lúc nào cũng có cái ná thun trong người.. mà cả trong cái nét hiếu thắng, luôn luôn ưa tranh giành với người chị, không biết nhường nhịn chị vì Việt là em trai của Chiến mà! Thật ra thì không phải Việt không yêu thương chị mình, trái lại nữa là khác, nhưng có được một người chị như Chiến, làm sao Việt có thể khác được?

Cho đến khi lên đường tòng quân, chuẩn bị thành người lính hay đã trở thành người lính rồi, Việt vẫn trẻ con như thế, trẻ con và vô tư. Nghe chị bàn bạc chuyện nhà, Việt chỉ ừ ào cho qua chuyện “chụp một con đóm đóm trong lòng bàn tay… rồi ngủ quên lúc nào không biết”. Vào đơn vị, Việt vẫn không quên cây ná thun. Đặc biệt trẻ con, Việt không dám hé cho ai biết rằng mình có một người chị, bởi cái lẽ giản đơn “sự mất chị”. Đánh giặc rất dũng cảm, bắn cháy xe tăng Mỹ, Việt không hề sợ hãi, nhưng lạc trên chiến trường một mình sau trận đánh, Việt lại sợ ma. Sau những cố gắng phi thường, Việt gặp lại đồng đội của mình. Việt vừa khóc vừa cười, hệt một đứa trẻ “khóc đó rồi cười đó”.

Xây dựng hình ảnh nhân vật Việt hồn nhiên và trẻ thơ như thế, phải chăng Nguyễn Thi muốn nói với người đọc về một thế hệ trẻ Việt Nam đã bước vào cuộc chiến đấu rất sớm, như thẳng từ tuổi thơ mà đến. Ý đồ nghệ thuật của Nguyễn Thi hình như còn ở chỗ này nữa: thế hệ ấy có thể rất hồn nhiên, trẻ con, rất vô tư, vô tâm trong nhiều mối quan hệ gia đình và xã hội, nhưng lại cực kì nghiêm túc trong những suy nghĩ về kẻ thù, về cuộc chiến đấu chống quân xâm lược. Vì sao vậy? Vì bản chất chính nghĩa của cuộc chiến đấu ấy. Đó là một chiến đấu vì sự sống, cũng là một cuộc chiến đâu đầy chất tươi trẻ và lạc quan.

Chiến thì khác hẳn với Việt. Có thể Chiến cũng đã như Việt nếu Chiến có một người chị. Nhưng chiến là chị cả của những đứa em không còn cha mẹ. Là con gái, Chiến có cái kiên nhẫn đến gan của người phụ nữ đã từng trải cực khổ. Chính là Chiến, chứ không phải Việt, ngồi đánh vần từng chữ, đọc cho được, đọc cho hết, cuốn sổ ghi chép của gia đình đầy máu và nước mắt để nuôi dưỡng cho mình một khát vọng khôn nguôi chiến đấu và trả thù. Là người chị, Chiến trở thành người phụ nữ đảm đang, hy sinh, tận tụy, Chiến không kịp nghĩ gì cho mình trước khi nghĩ đến em. Lúc nào Chiến cũng nhường nhịn em, từ việc lớn đốn việc nhỏ. Trong cả truyện ngắn, duy nhất chỉ có một lần Chiến không nhường em. Ấy là lần cả hai chị em cùng xin đi bộ đội, Chiến đã nói với anh cán bộ tuyển quân: Đến tết này nó mới được mười tám anh à !”

Người đọc dễ dàng chấp nhận hành động (tranh hơn) này của Chiến, không thấy nó mâu thuẫn gì với bản tính của cô, bởi vì, ngoài khát vọng chiến đấu, hành động của Chiến còn thể hiện một ý muốn cảm động của cô: Chiến chưa muốn em mình sớm phải bước vào cuộc chiến đấu gian khổ.

Chiến như lớn hơn tuổi của mình, chín chắn, sâu sắc hơn. Trong cái đêm hôm trước ngày lên đường nhập ngũ, Chiến đã lo lắng, lo liệu đến từng chi tiết công việc gia đình, từ việc gửi đứa em út ở với chú, việc giao nhà, giao đất cho ai quản lí, đến việc gửi bàn thờ má, việc cúng giỗ ba má… việc nào Chiến cũng tính toán cẩn thận chu đáo. Trong cảm nghĩ của Việt, Chiến thật giống hệt như má từ lời nói đến việc làm. Chiến thật đúng là hình ảnh một cô gái Việt Nam mà truyền thống và thời đại đã sản sinh ra.

Tạo ra hai hình ảnh khác nhau như Chiến và Việt, Nguyễn Thi thật ra đã xây dựng được những nét bổ sung để khắc họa nên hình ảnh thế hệ trẻ Nam Bộ trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước. Được nuôi dưỡng bởi cùng một truyền thống gia đình, cùng chịu chung những cảnh ngộ, lại là chị em ruột, Chiến và Việt rất giống nhau với những cách thức biểu hiện khác nhau, hai chị em rất thương yêu nhau. Cùng rất thương má, hai chị em cùng nuôi khát vọng lớn lao: được chiến đấu, được trả thù cho má. Hai chị em cùng may mắn được nhập ngũ một ngày. Dù ở hai đơn vị khác nhau, hai chị em lúc nào cũng nghĩ đến nhau, cùng lấy việc dũng cảm trong chiến đấu và chiến công làm thước đo để đo lòng thương đối với má.

Vẻ đẹp riêng của hai nhân vật Tnú trong “Rừng xà-nu” và Việt trong truyện “Những đứa con trong gia đình” – Ngữ Văn 12

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhân vật:

– Truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành và Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi là 2 tác phẩm xuất sắc, phản ánh cuộc chiến đấu của con người Việt Nam trong kháng chiến.

Tnú và Việt là hai nhân vật chính của hai tác phẩm. Qua hai nhân vật, tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đã khắc họa được vẻ đẹp con người Việt Nam trong thời chống Mĩ. Ở mỗi nhân vật đều có những vẻ đẹp riêng, hấp dẫn người đọc.

2. Phân tích vẻ đẹp riêng ở mỗi nhân vật:

a. Nhân vật Tnú:

– Con người có cá tính, bất khuất, kiên trung, đã vượt qua bi kịch cá nhân để tiếp tục chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược.

+ Từ nhỏ, Tnú là một cậu bé gan góc, dũng cảm, trung thực, được giác ngộ cách mạng ;

+ Khi thoát ngục Kontum trở về, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, được tôi luyện qua nhiều thử thách, trở thành một chiến sĩ kiên cường, bất khuất, trung thành với cách mạng.

+ Vẻ đẹp của nhân vật bộc lộ sáng chói qua đoạn cao trào đầy kịch tính của truyện khi vợ con bị giặc giết, bản thân anh bị kẻ thù đốt cháy mười đầu ngón tay bằng chính nhựa xà nu của quê hương, khơi dậy cao độ lòng căm thù giặc của cả buôn làng.

– Gắn bó với gia đình, bản làng: yêu thiết tha bản làng, gắn bó thân thiết với cảnh và người ở quê hương mình, hết lòng yêu thương vợ con.

– Nghệ thuật thể hiện: không gian sử thi, cuộc đời sử thi, ngôn ngữ chọn lọc, tạo không khí.

b. Nhân vật Việt:

– Mang vẻ trẻ con hồn nhiên, ngây thơ, vô tư: để mặc chị lo hết mọi việc trong nhà, không sợ kẻ thù, không sợ cái chết nhưng rất sợ ma, lúc nào bên người cũng có cái súng chun,…

– Tính cách bộc trực, dũng cảm, kiên cường, gắn bó sâu nặng với gia đình, đồng đội, khát khao cầm súng trả thù nhà, đền nợ nước.

+ Khi còn nhỏ dám xông thẳng vào đá thằng giặc vừa giết hại cha mình.

+ Khi chưa đủ tuổi tòng quân, Việt nằng nặc đòi đi cầm súng trả thù cho ba má.

+ Khi xung trân, Việt chiến đấu rất dũng cảm.

+ Khi bị thương, lạc đồng đội, Việt vẫn trong tư thế chờ tiêu diệt giặc.

– Nghệ thuật thể hiện: Nhân vật được đặt vào một tình huống thử thách đặc biệt; lối trần thuật nửa trực tiếp, ngôn ngữ đậm sắc thái Nam bộ.

3. Bình luận:

– Họ đều là những điển hình của con người Việt Nam kháng chiến mang thân phận bi kịch, chịu nhiều đau thương, mất mát, giàu tình cảm, căm thù giặc sâu sắc, quyết tâm chiến đấu bảo vệ đất nước, quê hương.

– Tuy nhiên, ở mỗi nhân vật lại có những vẻ đẹp riêng:

+ Tnú là nhân vật được kết tinh từ vẻ đẹp tiêu biểu nhất của con người mang đậm dòng máu, tính cách của núi rừng Tây Nguyên với hình ảnh, vóc dáng vạm vỡ chứa trong đó cái mênh mang, trong sạch, hoang dại của núi rừng.

Qua nhân vật Chiến và Việt trong tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi, anh / chị hãy làm sáng tỏ nhận định – Ngữ Văn 12

Đề bài: Nguyễn Thi hay viết về người anh hùng. Nhưng đó là kiểu người anh hùng – con đẻ của đất cày và sông nước; ở đó, cái anh hùng hòa lẫn với cái bình dị, sự cao cả hiện ra dưới vẻ thân thuộc, gần gũi, chất phác tự nhiên, và lắm khi chất anh hùng lại lộ ra qua những biểu hiện ngây thơ, ngộ nghĩnh.

Qua nhân vật Chiến và Việt trong tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi, anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

Hướng dẫn làm bài:

1. GIỚI THIỆU CHUNG:

– Nguyễn Thi là là một trong những cây bút xăn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Ông là nhà văn gắn bó sâu sắc với nhân dân miền Nam, được mệnh danh: nhà văn của người dân Nam Bộ.

– “Những đứa con trong gia đình” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi, được viết trong những ngày chiến đấu ác liệt khi ông công tác ở tạp chí “Văn nghệ Quân giải phóng”. Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc và khao khát chiến đấu, son sắt với cách mạng.

2. GIẢI THÍCH Ý KIẾN:

– Trích dẫn ý kiến: “Nguyễn Thi hay viết về người anh hùng. Nhưng đó là kiểu người anh hùng – con đẻ của đất cày và sông nước; ở đó, cái anh hùng hòa lẫn với cái bình dị, sự cao cả hiện ra dưới vẻ thân thuộc, gần gũi, chất phác tự nhiên, và lắm khi chất anh hùng lại lộ ra qua những biểu hiện ngây thơ, ngộ nghĩnh”.

=> Ý nghĩa:

+ Khẳng định đặc điểm tính cách của các nhân vật Việt và Chiến.

+ Nét độc đáo trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Thi.

3. PHÂN TÍCH, CHỨNG MINH:

3.1. Nhân vật Chiến:

– Chiến hiện lên với vóc dáng của một người lao động: hai bắp tay tròn vo xạm màu đỏ cháy nắng, thân người to và chắc nịch…

– Sự đảm đang, tháo vát: Ở Chiến, khả năng vun vén, thu xếp gia đình cũng thể hiện rất rõ: Trước khi cùng em đi bộ đội, mọi chuyện nhà đã được cô xếp đặt đâu vào đó, tỉ mỉ, chu đáo, “nói nghe thiệt gọn” khiến cho chú Năm cũng phải có chút sững sờ. Về điều này Chiến rất giống với mẹ, chính chị cũng cảm giác hòa vào với mẹ.Theo lời chú Năm, cô “không khác mẹ một chút nào”.

=> Xứng đáng là người con cả, người chị trong gia đình.

– Phẩm chất anh hùng:

+ Cô có đức tính kiên trì, chịu khó ( bỏ ăn để ngồi đánh vần cuốn sổ gia đình suốt từ trưa cho tới lúc trời chạng vạng).

+ Cô cũng thừa hưởng ở mẹ đức tính gan góc, kiên cường, quyết tâm đánh giặc đến cùng: Trong ngày tòng quân, Chiến nói với em: “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à !”.

– Tuy nhiên, ở chị Chiến vẫn có những nét nữ tính: lúc nào cũng có chiếc gương nhỏ trong túi, ngậm một ít tóc trông nữ tính, quan trọng nhất là có cơ hội cầm súng.

=> Nhân vật Chiến hiện lên thật bình dị, để lại nhiều xúc cảm trong lòng bạn đọc với tính cách đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam nói chung và người phụ nữ Nam bộ nói riêng “giỏi việc nước, đảm việc nhà”.

3.2. Nhân vật Việt:

– Tính cách trẻ con, hồn nhiên, hiếu động:

+ Thích dành phần hơn với chị Chiến (chiến tích sông Định Thủy, dành đi lính)

+ Vô tư nên việc nhà phó thác cho chị Chiến, khi chị Chiến bàn bạc việc nhà thì “lăn ra cười khì”, lúc lại “chụp một con đom đóm” rồi ngủ quên lúc nào không biết.

+ Đi lính vẫn mang theo súng cao su.

+ Dấu thư chị sợ các anh trong trung đoàn biết sẽ mất chị..

+ Bị thương ko sợ chết mà sợ ma…

+ Gặp đồng đội, Việt giống hệt thằng út em ở nhà “khóc đó rồi lại cười đó”

– Nhưng khi đi đánh giặc, Việt là người anh hùng thực thụ:

+ Luôn khắc ghi mối thù của gia đình “Mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”

+ Quyết tâm đi đánh giặc , lập nhiều chiến công để trả thù cho ba má.

+ Trong trận chiến đấu ác liệt ở rừng cao su, Việt đã hạ được một xe bọc thép của đích dù bị thương rất nặng và bị lạc đồng đội.

=> Việt được khắc họa là một nhân vật tuổi trẻ anh hùng, đại diện tiêu biểu cho thế hệ thanh niên miền Nam anh hùng trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, bên cạnh đó không kém phần ngây thơ, ngộ nghĩnh.

3.3. Nghệ thuật xấy dựng nhân vật:

– Nghệ thuật trần thuật qua dòng hồi tưởng của nhân vật.

– Khắc họa tính cách và tâm lí nhân vật sắc sảo.

– Ngôn ngữ phong phú, góc cạnh và đậm chất Nam Bộ.

4. ĐÁNH GIÁ CHUNG:

– Với ngòi bút tài hoa, tác giả Nguyễn Thi đã xây dựng thành công Chiến và Việt – những nhân vật anh hùng, là thế hệ tiếp nối cha ông đánh giặc, làm dày thêm truyền thống vẻ vang của gia đình, quê hương. Đặc biệt hơn, nhà văn còn gửi gắm ở họ những nét đặc trưng của người con sông nước, những nét bình dị, chất phác mà vô cùng ngộ nghĩnh đáng yêu của những người dân Nam Bộ.

– Chiến và Việt là những anh hùng mang nét đặc trưng của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước nói chung, đồng thời họ cũng là những anh hùng mang nét khác biệt của Nguyễn Thi nói riêng.

– Nguyễn Thi xứng đáng được gọi là nhà văn của người dân Nam Bộ.

Tác phẩm Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi – Ngữ Văn 12

BÀI LÀM

Những đứa con trong gia đình là câu chuyện của một gia đình, một dòng họ nhưng cũng là câu chuyện của bao nhiêu gia đình khác trong chiên tranh chống Mỹ cứu nước, vẫn là chuyện bi thương, sống chết… Những chuyện gắn liền với mưa bom bão đạn. Vậy mà Nguyễn Thi vẫn có cách riêng để xử lí rằng, để dựng thành một truyện ngắn đặc sắc, đậm nét Nam Bộ, chịu được thử thách của thời gian, một truyện ngắn tiêu biểu – nếu không nói là đỉnh cao – của phong cách nghệ thuật Nguyễn Thi.

Cốt truyện Những đứa con trong gia đình không có gì phức tạp. Đó là câu chuyện của chị em Việt, Chiến – Những đứa con trong một gia đình có quá nhiều mất mát đau thương: cha bị Tây chặt đầu, má bị đại bác Mỹ bắn chết. Mới bước vào ngưỡng cửa của tuổi trưởng thành. Họ tranh nhau tòng quân để rồi cả hai người cùng nhập ngũ, cũng được ra mặt trận. Trong một trận đá Việt diệt được một xe tăng và sáu lên Mỹ. Bị thương nặng, Việt phải nằm lại chiến trường còn ngổn ngang dấu vết bom đạn, nhưng anh vẫn cố gắng nhoài từng nấc để dò đường về đơn vị. Ba ngày lạc đồng đội, trơ trọi một mình trận địa, có bao nhiêu hồi tưởng về gia đình, về những người thân đến với Việt. Cuối cùng đồng đội đã tìm thấy anh, Việt lại về sống trong tình yêu thương đùm bọc của anh em.

Chuyện thì đơn giản như vậy nhưng Nguyễn Thi lại biết dẫn dắt câu chuyện một cách sinh động. Theo sự hồi tưởng của nhân vật chính (Việt) hiện tại quá khứ, mặt trận và làng quê cứ đan xen vào nhau, cắt nghĩa cho nhau để làm nổi rõ chủ đề của truyện.

Việt và Chiến là hai chị em ruột. Con đường đến với mặt trận của họ xuất phát từ đâu? Nguyễn Thi không miêu lả dài dòng, ông chỉ lọc lấy một vài chi tiết đặc quánh hiện thực, tự nó làm sống lại cái quá khứ bi thương của gia đình Việt, để lí giải nguyên do ihúc đẩy những đứa con trong gia đình đi tòng quân. Cuốn sổ gia đình mà Việt, Chiến dùng để đánh vần chính là “cuốn gia phả” bi thương của một dòng họ, ở cuốn gia phả ấy, mỗi trang, mỗi dòng đều thấm máu và nước mắt người thân của họ, từ ông bà đến má chú bác, ngày nào kẻ thù gây ra đau thương cho gia đình cũng bị ghi chép một cách cụ thể. Ở “cuốn gia phả” ấy không chỉ có bi thương mà còn có chiến công dù “thỏn mỏn” hay to lớn những chiến công do cha ông họ, do chính họ viết nên. Học chữ từ cuốn sổ gia đình thực chất là để học lấy cái đạo lí người, nhớ lấy đau thương. Nhớ lấy cái mối thù sâu nặng và để viết tiếp những chiến công cho lịch sử gia đình. Không phải ngẫu nhiên mà chú Năm – người đại diện cho thế hệ đi trước, người chấp bút “cuốn gia phả” – lại ghi câu này: “Còn nhiều việc thỏn mỏn tôi không ghi hết, để rồi sắp nhỏ nó ghi thêm” và kế câu đó là chiến công của chị em Việt trên sông Định Thuỷ. Thiết tưởng đây không phải là chuyện nhớ gì ghi nấy, mà là chuyện trọng đại: lời dặn dò của thế hệ trước với thế hệ sau, một sự gởi gắm đầy tin tưởng của cha ông với cháu con. Và quả thực lớp trẻ như Việt, Chiến đã không phụ lại niềm tin đó.

Mồ côi cha mẹ, lại phải sống trong chiến tranh, ở hoàn cảnh đó, con người thường bị hụt hẫng về tình cảm, rất dễ khủng hoảng tinh thần, nhưng không, chị em Việt vẫn trụ lại trước cuộc đời, vẫn không đơn côi lẻ loi, vẫn thấy rõ con đường của mình phải đi. Khát vọng lớn nhất của họ là được tòng quân, là được hoà nhập vào cuộc chiến của quê hương đất nước, kế tục truyền thống đánh giặc của cha ông.

Viết về tuổi thơ miền Nam thời chống Mỹ, ngòi bút của Nguyễn Thi vừa đồng cảm trìu mến thiết tha, vừa trân trọng khâm phục ngợi ca. Dường như, ở những đứa con trong gia đình bút lực của ông dồn vào hai nhân vật tuổi trẻ là Việt và Chiến. Mỗi nhân vật này đều là hình tượng nghệ thuật hấp dẫn mà hâp dẫn lớn nhất chính là sức trẻ, là nghị lực vượt lên sự khắc nghiệt của chiến tranh.

Việt, nhân vật trung tâm của truyện, bước vào đời lính với tất cả sự trẻ trung, hồn nhiên, ngây thơ. Ngày chưa đi bộ đội, Việt còn trẻ con lắm, luôn tranh nhau phần hơn với chị từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn, đi bắt ếch với chị hay cùng chị vào du kích đánh giặc, bao giờ Việt cũng tranh công lớn về mình. Chưa một lần xa nhà xa chị, đến lúc đi bộ đội. Việt gặp những cảnh vật của vùng quê khác: “những ngọn đồi, những con đất đỏ như gạch non. những vỏ trái cao su nổ lách tách dưới trời mưa mở ra hình dáng những chiếc sừng trâu nhọn và sắc, những con đường sắt có hai ngoe thôi, coi thật ngộ, chân người bước lên còn té, vậy mà xe chạy được”, “cái gì cũng lạ đối với anh”. Dấu vết trẻ thơ còn đậm trong con người Việt. Chả thế mà có lúc cách nghĩ của anh rất đơn giản. Mỗi lần nghe đồng đội gọi mình là “Cậu Tư” nghe vui, chan hoà yêu thương đồng đội nhưng Việt cố giấu tình anh em là mình có chị gái vì “sợ mất chị”, cũng là cách nghĩ trẻ thơ, vừa buồn cười vừa thật đáng yêu! Nhưng kì diệu thay, chính con người mà tâm hồn còn non trẻ ấy lại vượt qua được cái khốc liệt của chiến tranh với một nghị lực phi thường. Quên hết mọi đau đđn, quên cả tính mạng chông chênh, Việt rượt đuổi chiếc xe bọc thép, “chỉ nhớ mình đang mát nhẹ như bay, giờ đây mình có một cánh tay phải ráng bám chặt vào thành xe và một tay mở cho được trái thủ pháo”. “Giặc còn thì còn chết”. Câu nói như một lời hứa thân thuộc từ một nơi nào đó rât xa dội lại. Cái xe vẫn chạy thục mạng. Giặc ném lựu đạn nổ ùng oàng đằng sau. Việt cũng không biết.

“Chiếc xe bọc thép cháy bừng lên, một ngọn lửa xanh liếm ngang ngọn cao su. Trái thủ pháo của Việt đã nổ gọn trong lòng nó”.

Chỉ bằng một vài chi tiết tiêu biểu cùng với nhịp điệu dồn dập. khẩn trương của những câu văn ngấn gọn trên đây, Nguyễn Thi đã diễn tả sinh động cái sức mạnh ngoan cường trong người lính trẻ. Phải chăng lòng căm thù giặc vốn dồn nén trong lòng Việt, theo má đi đòi đầu ba, cùng với tình yêu thương và cả sức lực của tuổi trẻ nữa đã tạo nên sức mạnh giúp Việt “Vụt lớn khôn hơn, can đảm hơn” để vượt qua ranh giới của tuổi thơ và “tạo nên những chuyện bất ngờ của tuổi trưởng thành”.

Viết về chiến tranh, nhất là con người trong chiến tranh, Nguyễn Thi không dễ dãi hời hợt, không né tránh mất mát đau thương; trái lại ông luôn cố gắng phản ánh trung thực cái hiện thực đang tồn tại với tất cả xù xì, phức tạp của nó. Miêu tả nhân vật Việt, ông tập trung khai thác cái chiến công vượt lên chính mình để tìm về đơn vị của Việt khi anh đơn độc trên chiến trường mù mịt “khói trắng của lửa đạn”, “sắt thép ngổn ngang, những tấm tăng cháy dở còn nóng hổi, những thùng đạn ngập trong đất, những đống đạn còn tanh máu…”. Ba ngày, một mình Việt phải sống trong cái không gian im lặng, bốn bề khói lửa chiến tranh là ba ngày Việt giành giật sự sống. Mà muốn có sự sống không phải chiến chuẩn bị chiến đấu với kẻ thù mà còn phải chiến đấu với tử thần, “Khắp người anh đang rỉ máu, chỗ nào đụng tới, ruồi cũng bay lên như vãi trấu… các ngón tay tê nhức, miệng tê cứng, hai mắt sưng lên…”, ấy vậy mà Việt vẫn lê từng tấc đất, hướng về phía súng nổ, nơi đó là trận đánh bởi vì “chính trận đánh đang gọi Việt đến. Phía đó là sự sống”. Thật là một nghị lực phi thường! Trong ba ngày đơn độc ấy, lúc nào Việt cũng hướng về đồng đội với một niềm tin vững chắc: đồng đội “đang đổ lên giặc Mỹ những đám lửa dẽ dội”, đồng đội đang tìm anh ở đâu đó. Không có niềm tin ấy chắc Việt không thể vượt qua nổi những cơn đau thể xác đang hành hạ anh. Tất nhiên không phải Việt không có lúc nào nghĩ đến cái chết, có điều khi nghĩa đến cái chết, cách nghĩ của anh vẫn là cách nghĩ của trẻ thơ nhiều hơn là người lớn: “Chết là gì nhỉ? Chắc là đau gấp mấy lần bị thương. Hay chết tức là người thật biến lên trên nóc nhà, còn người già thì nằm tại đó?” và vẫn là cách nghĩ nghĩa tình của con người gắn bó với đồng đội “chết mà không còn được ở chung với anh Tánh và không được đi bộ đội nữa thì buồn lắm”. Nghĩ về cái chết như vậy thì chẳng bi quan một chút nào!

Miêu tả nhân vật Việt giành giật sự sống nơi trận địa, Nguyễn Thi còn làm nổi rõ đời sống tình cảm của nhân vật này trong mối quan hệ với những người thân ở quê hương. Qua những hồi ức của Việt tưởng như rời rạc nhưng thực ra chúng liên kết với nhau rất chặt chẽ, ta hiểu thêm rất nhiều đời sống tình cảm của anh, ta cũng hiểu thêm cội nguồn tạo nên sức mạnh ở con người Việt. Mỗi lần tỉnh dậy, Việt cố quên đi nỗi đau thể xác, anh luôn luôn nghĩ đến người thân. Khi là chú Năm, con người bộc trực yêu đời có “giọng hò đã đục và tức như gà gáy mà Việt rất yêu thương; khi là chị Chiến bao giờ cũng nhường nhịn Việt và Việt nhớ má nhiều nhất. Trong hồi ức của Việt, má anh hiện lên đẹp đẽ và cũng rất đau thương. Đó là một bà má Nam tảo tần hết lòng thương yêu chăm sóc con cái gan góc can trường. Nỗi nhớ của Việt thật cụ thể, Việt nhớ từ đôi mắt mở to hai đôi bắp chân tròn vo của má “lội hết đồng này sang đồng khác”, “tìm việc nuôi chị em Việt đến câu trả lời đanh thép trước kè thù của má” “Vợ Tư Năng đấy!” Việt nhớ tới cái chết của ba, cái chết của má, nhớ tới những tội ác của kẻ thù đã gây ra cho gia đình anh. Nhớ tới người thân, Việt cảm thây đỡ cô đơn nơi chiến địa. Chính yêu thương và nghĩa tình sâu nặng cùng với sức lực của tuổi trẻ, niềm tin vào đồng đội đã tạo nên sức mạnh phi thường ở nơi anh, giúp anh vượt qua ranh giới của cái chết để trở về với đội ngũ.

Xây dựng nhân vật Việt, Nguyễn Thi tập trung miêu tả sức mạnh của tuổi trẻ ở chính nơi chiến trường, trong lúc đối mặt trực tiếp với kẻ thù, với bom đạn, với ranh giới của sự sống và cái chết. Tuy nhiên, viết về tuổi trẻ, Nguyễn Thi không dừng lại ở đó, ông còn bật mí chị không muốn em mình phải đối đầu với bom đạn, muốn giành lấy cái phần hiểm nguy về cho mình. Đấy, cái chiều sâu yêu thương tâm hồn Chiến là như vậy. Cao thượng và đẹp đẽ biết bao!

Đọc Những đứa con trong gia đình, chúng ta có thể tìm thấy nhiều nét đặc trưng phong cách nghệ thuật của Nguyễn Thi. Khắc hoạ tính cách nhân vật, ông thường sử dụng tối đa thủ pháp tương phản, ở truyện ngắn này cũng vậy. Xây dựng nhân vật Việt, Nguyễn Thi đã tạo ra nhiều sự tương phản. Có sự tương phản giữa cái hồn nhiên ngây thơ với ý thức chiến sĩ sâu sắc, giữa sự đớn đau đến tột cùng của mọi cảm giác với mọi phi thường vượt lên đớn đau, giữa cái lặng im đến ghê người với tiếng nổ của trận đánh diệt thù và đặc biệt cái dữ dội khói lửa của mặt trận với cái ấm áp nghĩa tình của gia đình, thôn xóm. Tất cả những sự tương phản này càng làm nổi rõ phẩm chất ngoan cường, đời sống nội tâm phong phú, tình cảm cao đẹp của Việt.

Viết về chiến tranh, bên cạnh việc miêu tả cái bề bộn của nó, đôi khi Nguyễn Thi xen vào trang viết của mình những bức tranh sinh hoạt thân thiện làng quê Nam bộ. Những đêm trời mưa Việt đi bắt ếch, những ngày hè có tiếng chim cu gù đâu đó, cảnh sông nước ngày mùa, dù chỉ ở dạng phác thảo củng vẫn có hồn có sắc… Chính những phác thảo này tạo nên chất trữ tình cho tác phẩm làm cho câu chuyện viết về chiến tranh bớt đi cái nặng nề. Do vậy mà liệu quả thẩm mĩ được nâng cao.

Không phải ai cũng tự nhiên mà ra trận, tự nhiên mà thành người chiến sĩ hay anh hùng. Mỗi người anh hùng đều ra trận với một nỗi đau, nỗi đau càng lớn thì sức mạnh càng cao. Sức mạnh của cuộc kháng chiến chống Mỹ này chính là sự kết lại của những nổi đau lớn, có khi vô cùng lớn. Đó là lời giải thích toát ra từ mỗi dòng chữ của Nguyễn Thi trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình.

Cái hay của Nguyễn Thi không phải là đi từ một nhận định sẵn có để rồi lấy cuộc sống, trong số phận mỗi nhân vật của mình kể lại, kể một cách hồn nhiên, một cách xúc động như chính đó là số phận của mình. Và còn điều này nữa, chắt lọc một cách thông minh, để cho mỗi chi tiết đều có vị trí xứng đáng, đầy ắp sức sống, sức tái hiện và cả sức khơi gợi liên tưởng.

(Những bài văn mẫu- Phạm Quang Vũ – Nguyễn Lê Tuyết Mai)

Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình là sáng tác xuất sắc của nhà văn Nguyễn Thi về những người nông dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lâu dài và gian khổ. Phân tích hình tượng hai chị em Chiến và Việt trong tác phẩm này – Ngữ Văn 12

Những đứa con trong gia đình là một sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Thi – cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam trong những năm chống Mĩ.

Nhân vật chính trong thiên truyện là những thanh niên lứa tuổi mười tám đôi mươi, và chúng đã kịp thời trớ thành những chiến sĩ xông pha trận mạt.

Nhưng điều bất ngờ là dù thế, tác giả vẫn thể hiện họ chủ yếu trong tư cách những đứa con. Họ, những thanh niên ấy, quả có được miêu tả nhiều hơn trong quan hệ với anh em đồng đội. Thế nhưng họ vẫn được miêu tả nhiều hơn trong quan hệ với gia đình.

Nhìn những chiến sĩ trong tập thể chiến đấu như những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi đã có một cảm xúc nghệ thuật lí thú. Góc nhìn ấy sẽ cho phép nhà văn lí giải, cắt nghĩa phẩm chất của con người không chỉ trong mối quan hệ ngang với một thời đại, mà còn trong mối quan hệ dọc và một truyền thống, một nếp nhà.

Cảm hứng nghệ thuật lí thú ấy đã tìm được cách biểu hiện cũng không kém phần lí thú. Câu chuyện được thuật lại không theo một trật tự thời gian mà chủ yếu là nhịp theo dòng hồi tưởng miên man, đưa nối của một chiến sĩ trẻ tên là Việt., bị thương, cứ liên tục ngất đi rồi lại tỉnh lại trong hoàn cánh chi có một mình giữa một chiến trường mênh mông bóng tối (anh không nhìn thấy gì vì đã bị thương ở mắt) và vừa trở nên vắng lặng hẳn sau một trận đọ lê.

Truyện nói về những đứa con của một truyền thống gia đình yêu nước của người nông dân Nam Bộ, tác giả đã làm rõ cái truyền thống đã sinh thành ra những đứa con.

Trong truyện, truyền thống ấy được hiện lên trước hết qua hình ảnh chú Năm. Đây là hình tượng của con người giữ gìn truyền thống, báo lưu truyền thống, qua những câu hò thiết tha và mênh mông sông nước về một thời nghèo cực mà anh dũng, hào hùng qua cuốn sổ gia đình – mà thực chất là một cuốn gia phả độc đáo – ghi lại những nợ máu của quân giặc và sự dũng cảm kiên cường của dòng họ trong chiến đấu cách mạng. Chủ yếu cũng vì lẽ ấy mà tác giả đã sáng tạo ra chi tiết: chị em Chiến – Việt rước bàn thờ má đặt tại nhà chú Năm trước ngày lên đường đi chiến đấu.

Còn người mẹ thì cuộc đời đó chính là truyền thống. Người mẹ này thuộc vào số những hình tượng phụ nữ mang rõ dấu ấn khá riêng của phong cách Nguyền Thi. Đó là một con người rất phụ nữ nhưng không hề mảnh mai, mềm yếu mà ngược lại, bà khỏe chắc về thể chất và dũng cảm về mặt tinh thần. Con người ấy bộc lộ phẩm chất phụ nữ của mình ở sự tảo tần, xốc vác, ở sức chịu đựng phi thường, ở khả năng ghìm nén đau thương để sống, để nuôi nấng, che chở, tranh đấu. Người mẹ nông dân bình dị ấy, cũng như mọi người mẹ, là hiện thân của yêu thương, của sự hết lòng với chồng con. Nhưng ở đây, cảm hứng của Nguyễu Thi về tình yêu của người mẹ là cảm hứng với một tinh cảm có sức khiến con người không biết sợ, không chùn bước. Bồng con, cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng, hiên ngang đối đáp với kẻ thù mà bàn tay to bản vẫn phủ lên đầu đàn con đứng nép dưới chân – đây là những hình ảnh có giá trị biểu tượng về người phụ nữ ở một đất nước như đất nước chúng ta: quá cực khổ nhưng rất đỗi kiên cường, hết sức đau thương nhưng vô cùng cao cả.

Dù người mẹ đã mất, truyền thống ấy sẽ tiếp tục sống trong những đứa con.

Trước hết. truyền thống ấy thể hiện ớ người con gái, cô Chiến. Chiến không chỉ mang vóc dáng của mẹ, với khổ người to chắc. Chiến còn mang cái nết của mẹ: gan góc, tháo vát., biết tính toán, xếp đặt, lo toan, nói về việc “nghe in như má”. Đó đúng là một đứa con trong gia đình, nối tiếp được truyền thống của gia đình.

Nhưng Chiến không phải là bán sao cùa mẹ. Cô có những nét mới của thế hệ sau: hồn nhiên, vui tươi, hay cười, còn chú ý làm đỏm nữa. Và điều quan trọng hơn là người mẹ trong truyện suốt đời không cầm súng và chỉ quanh quấn ở quê nhà. Chiến bắn được tàu giặc từ khi còn nhỏ. Và người con gái ấy sẽ đi xa trong cuộc đời. với một ý nghĩ anh hùng không kém nam nhi: “Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à”.

Việt – người con trai – cũng thế. Cậu thừa hướng ở mẹ cha, từ khi còn bé, cái tính không hề biết sợ, cái thái độ coi việc đánh giặc cũng tự nhiên như hít thở khí trời, không có gì đáng phải phân vân, đắn đo.

Nhưng Việt không hoàn toàn giống Chiến. Việt là em, lại là em trai, đang trong tuổi ăn, tuổi lớn. Chính vì thế, nhân vật này mang rất nhiều cái duyên dáng của Nguyễn Thi. Việt anh hùng, nhưng không vì thế mà mất đi dáng vẻ vô tư, lộc ngộc của một chàng trai mới lớn. Nhưng dù có thế, thì Việt vẫn là khúc sông trong dòng sông truyền thống của gia đình: đi chiến đấu xa nhất, lập công lớn nhất, và là người tiêu biểu nhất cho tinh thần chiến công cách mạng.

Trên cơ sở của ý tướng trên, thiên truyện quả đã cho ta hình dung thấy: đã có một dòng sông truyền thống gia đình liên tục chảy từ những thế hệ cha anh đến đời hai chị em Chiến, Việt.

Đấy là một dòng sông mà khúc thượng nguồn đã được nhà văn cho thấp thoáng hiện ra qua hình tượng chú Năm.

Rồi đến khi gần gũi hơn với những đứa con – khúc sông đời mẹ.

Những đứa con trong gia đình, đến lượt mình, sẽ tiếp bước của những khúc sông trước đó, kế thừa truyền thống được cha anh đổ vào cho khúc sông của đời mình. Nhưng họ là khúc sông sau, họ sẽ chảy xa hơn.

Nhưng đó không phải là dòng sông đơn độc. Dòng sông ấy sẽ hòa vào biển cả. Cũng giống như những con người trong gia đình, họ luôn gắn mình, gắn gia đình mình với số phận của Tổ quốc, nhân dân, cách mạng. Đó là hiện thân của sức trẻ tiến công và đó cũng là hình ảnh của người nông dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lâu dài, gian khổ.

Phân tích truyện Những đứa con trong gia đình – Ngữ Văn 12

I. Giới thiệu khái quát

– Truyện viết năm 1966, lúc Bến Tre đã đồng khởi, nhân dân miền Nam đã cầm vũ khí đánh lại Mĩ – Ngụy, giành quyền sống và giải phóng quê hương. Chiến và Việt lớn lên trong cảnh tang tóc của gia đình và trong cuộc đứng dậy đồng khởi vĩ đại của quê nhà.

– Nguyễn Thi thuộc lớp nhà văn cầm súng. Ông hi sinh trong vị trí, tư thế chiến đấu giữa mùa xuân tiến công và nổi dậy năm 1968 trong trận đánh vào Sài Gòn. Trước đó, ông có mặt ở những vùng chiến trận khốc liệt (Củ Chi đất thép…)

– Tóm tắt truyện:

Anh chiến sĩ trẻ Việt bị thương nặng trong trận đọ súng với lính Mĩ. Tỉnh dậy lần đầu tiên vào ban đêm, Việt thấy mình lạc đơn vị, khắp người anh rỉ máu giữa trận địa đầy xác giặc. Việt chộp súng, dùng răng lên đạn, sẵn sàng chiến đấu. Tỉnh dậy lần thứ hai, Việt nhớ về quê nhà, nhớ chú Năm với cuốn sổ ghi chuyện, ghi công gia đình. Choàng dậy lần thứ ba, Việt phát hiện hai mắt không còn nhìn thấy gì, cả chín ngón tay đều bị thương. Anh nhớ đến câu chuyện má kể việc đi đòi đầu ba bị giết hại thời đánh Pháp. Việt tỉnh dậy lần thứ tư vào đêm thứ hai. Nghe thấy tiếng súng của ta, Việt chuẩn bị lựu đạn và súng để hiệp đồng và ráng bò lết về phía trận đánh. Anh tiếp tục nhớ lại ngày tranh nhau cùng chị Chiến tòng quân. Rồi hai chị em cùng được nhập ngũ một lần và thu xếp việc nhà, khiêng bàn thờ má đi gửi để yên tâm đi chiến đấu.

Sau ba ngày tìm kiếm, mấy lần chạm súng với địch, tiểu đội của Việt đã gặp được anh.

II. Nội dung và nghệ thuật

1. Nhân vật Việt

Ý chí chiến đấu mạnh mẽ và tình cảm đậm đà bộc lộ khi Việt bị thương rất nặng, cố tìm về đồng đội.

* Hoàn cảnh và thể trạng: Việt lạc đơn vị giữa rừng đầy xác giặc; chân tay tê dại nhức nhối; khắp người rỉ máu; miệng tê cứng không la lên được; mắt cũng bị thương, không nhìn thấy gì. Mỗi lúc Việt càng thêm kiệt sức.

* Tính cách và tâm trạng

+ Cố bò đi tìm đồng đội và sẵn sàng chiến đấu bằng khẩu súng của mình. Mười ngón tay không lên đạn được. Việt dùng răng giật cơ bấm, đưa ra một viên đạn lên nòng. Chi tiết này nói lên tinh thần chiến đấu, ý chí diệt giặc ở Việt rất mạnh.

+ Nhớ về quê nhà, nhớ chị, nhớ chú Năm, nhớ má, nhớ ngày tòng quân. Đặc biệt Việt nhớ hình ảnh má rất rành rõ (ngày mấy chị em theo má đi đòi đầu ba, ngày hai chị em khiêng bàn thờ má đi gửi để lên đường chiến đấu). Trong tâm tường Việt, má là người phụ nữ lao động khỏe mạnh, xốc vác, đảm đang việc nhà việc nước (đôi vai lực lưỡng, đôi mắt mở to, bắp chân tròn vo luôn dính sình đất, hai bàn tay to bản…).

Tóm lại, Việt đã bị thương, không nhìn được bằng con mắt thường anh đã nhìn sự việc hiện tại và quá khứ bằng con mắt của ý chí, của tâm tưởng. Qua đó nhân vật bộc lộ nghị lực, ý chí, tinh thần chiến đấu cao và tình yêu thương đậm đà, hồn nhiên. Cũng như chị, nhân vật trẻ này nhập ngũ không phải vì ý thích nông nổi mà do chiều sâu nhận thức: đi đánh giặc vì căm thù và yêu thương sâu nặng. Tuy Việt hay tranh giành với chị nhưng biết nghe lời chị (lúc hai chị em bàn việc nhà), thương chị. Nhân vật này cũng thể hiện nét hồn nhiên trẻ trung, thậm chí còn tính trẻ con (chi tiết cái ná thun theo Việt đi chiến đấu; không muốn mất chị; đang bàn việc nhà mà ngủ lúc nào không biết…).

Chính tình chị em, chú cháu, má con, đồng đội đã tiếp sức cho Việt vượt qua thử thách, chiến thắng hoàn cảnh khắc nghiệt, bi đát.

2. Nhân vật Chiến: hiện lên qua hồi ức của cậu em

– Biết lo toan, tính toán già dặn hơn lứa tuổi 20: cô đóng vai trò một người chị với lòng yêu thương, nhường nhịn; một người má với nỗi lo tính khôn ngoan mọi mặt; một người chiến sĩ khát khao chiến dấu, trả thù.

– Có tinh thần quyết chiến cao (như tên của cô: Quyết Chiến). Câu nói điển hình của cô với em: “Nếu giặc còn thì tao mất” – và cô đã trở thành tiểu đội trưởng quân địa phương.

Tóm lại, Chiến có nhiều nét giống mẹ cô (từ tính tình đến lời nói), giống như những người phụ nữ thời chiến phải đương đầu với hoàn cảnh thương đau, quyết liệt. Chiến mang hình ảnh của má trong mình, nhưng lại khác hơn vì cô đã vươn lên được mạnh mẽ với khẩu súng trong tay.

3. Đặc sắc nghệ thuật

a. Khai thác những nét, khía cạnh dí dỏm, dân dã rất Nam Bộ

– Các chi tiết: Việt “giấu chị”, chú Năm ghi sổ gia đình; chị em giành nhau đi bộ đội; cái ná thun theo Việt ra trận; người mẹ lấy nón làm phao lội qua sông…

– Các từ ngữ: giọng hò đục và tức như gà gáy; Việt đá trái dừa xuống mương cái đùng; Chiến hứ một cái “cóc”…

b. Đặt truyện trong bối cảnh đặc biệt, khác thường (một mình Việt trọng thương, bị lạc), hoàn cảnh cũng khác thường (cuộc chiến đấu quyết liệt Bến Tre là mảnh đất đồng khởi đầu tiên, xã Định Thủy, quê nhà của gia đình Việt lại là quê hương của cuộc đồng khởi vũ bão, dữ dội) nên hành động, tính cách nhân vật bộc lộ những nét khác thường (người vợ cắp rổ đi đòi đầu chồng; má Việt bỏ trái cà nông – giặc mới bắn, không nổ – vào rổ, cắp về; hai chị em giành nhau đi bộ đội, rồi cùng lên đường một lần, để lại đằng sau tất cả nhà cửa và đứa em nhỏ) đồng thời nhân vật vẫn mang những tình cảm truyền thống tốt đẹp (tình thương yêu).

c. Kết nối, trộn lẫn việc đánh giặc và sinh hoạt bình thường ở quê nhà

Tên truyện là Những đứa con trong gia đình, tác giả lại kể chuyện ở chiến trường. Nói chuyện chiến trường mà lại tái hiện chuyện trong gia đình.

Viết như vậy là phản ánh trung thực một thời, trên mảnh đất khét nồng bom đạn, hầu như không còn ranh giới giữa tiền phương, mặt trận và gia đình, đánh giặc và sinh sống. Bấy giờ, ở đó, sống là cầm súng, là chiến đấu; sống là phải đương đầu với cái chết và thắng cái chết.

III. Kết luận chung

Truyện tái hiện thực nóng bỏng của vùng quê rất đỗi thân thương với những người con chân chất hồn nhiên mang quyết tâm cao độ cầm súng trả thù nhà nợ nước, giành lại cuộc sống.

Qua các nhân vật chính ta thấy sức mạnh truyền thống đấu tranh anh hùng của gia đình, quê hương, xứ sở. Đồng thời mỗi người lại góp một “khúc sông” xứng đáng vào con sông gia đình kiên cường, tất cả đổ vào, tạo ra biển cả truyền thống dân tộc.

Cuối đoạn trích “Những đứa con trong gia đình” là những hình ảnh nào? Ý nghĩa? – Ngữ Văn 12

a. Hình ảnh cuối đoạn trích: “Chị Chiến đứng ra giữa sân, kéo cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả than người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má,đ ến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai.”

b. Ý nghĩa:

– Thể hiện sự đảm đang, tháo vát ,biết chăm lo việc gia đình của Việt và Chiến. Cho thấy hai chị em đã trưởng thành và có thể gánh vác mọi trọng trách của gia đình và xã hội.

– Tình cảm của Việt dành cho chị: Việt thấy thương chị. Chứng tỏ Việt tuy ngộc nghệch, vô tư nhưng có tình cảm gia đình sâu sắc.

– Lòng căm thù giặc của hai chị em và nỗi đau thương mất mát của gia đình “Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được vì nó đang đè nặng ở trên vai”.

– Có yếu tố tâm linh tạo nên tình cảm thiêng liêng, cảm động.

Chủ nghĩa anh hùng qua Rừng xà nu và Những đứa con trong gia đình – Ngữ Văn 12

I. GIỚI THIỆU:

Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 đã đạt nhiều thành tựu lớn, đặc biệt là trong mảng tác phẩm thể hiện phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống lại kẻ thù xâm lược thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Hai truyện ngắn “ Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành và “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi là hai tác phẩm đã thành công trong sự khắc họa những hình tượng nhân vật tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao đẹp, cho lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc, sức mạnh chiến đấu của dân tộc Việt Nam chống giặc ngoại xâm.

II. NỘI DUNG:

1. Thế nào là chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong văn học?

Đó là sự thể hiện của lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần chiến đấu bất khuất chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ tổ quốc của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là sự trung thành với lí tưởng cách mạng được thử thách trong những hòan cảnh khốc liệt, qua đó bộc lộ được vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng có tính chất tiêu biểu cho cả dân tộc.

2. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng thể hiện như thế nào trong hai truyện ngắn?

a. Về tác giả: Cả hai tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đều gắn bó với cuộc chiến đấu chống Mĩ, là những nhà văn chiến sĩ ở tuyến đầu máu lửa à Tác phẩm của họ mang hơi thở nóng hổi của cuộc chiến đấu với những hình tượng nhân vật sinh động, bước vào văn học từ thực tế chiến đấu.

b. Về hoàn cảnh sáng tác: Hai truyện ngắn “Rừng xà nu” ( 1965), “Những đứa con trong gia đình” (1966) đều ra đời trong giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi đế quốc Mĩ đổ quân vào miền Nam nước ta, dân tộc ta đứng trước trận chiến một mất một còn để bảo vệ độc lập tự do, bảo vệ quyền sống. Đó là bối cảnh lịch sử để từ đó hai tác phẩm ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với chất sử thi đậm đà.

c. Về hình tượng nhân vật của hai truyện ngắn:

– Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trước tiên thể hiện ở những nhân vật mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, từ đau thương trỗi dậy để chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược:

– Họ đều là những người con được sinh ra từ truyền thống bất khuất của gia đình, của quê hương, của dân tộc:

+ Tnú là người con của làng Xô Man, nơi từng người dân đều hướng về cách mạng, bảo vệ cán bộ “ Đảng còn thì núi nước này còn” – Lời cụ Mết. (Rừng xà nu)
+ Chiến và Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nứơc, căm thù giặc: Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam bộ kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối lí tưởng của cha mẹ. (Những đứa con trong gia đình)

– Họ đã chịu nhiều đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra, tiêu biểu cho đau thương mất mát của cả dân tộc:

+ Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn đến chết, bản thân bị giặc đốt mười đầu ngón tay.

+ Chiến và Việt chứng kiến cái chết của ba má: ba bị chặt đầu, má chết vì đạn giặc.
à Những đau thương đó hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam. Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Tnú lên đường đi “lực lượng” dù mỗi ngón tay mất đi một đốt, Chiến và Việt cùng vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì: chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống. Chân lí đó đã được minh chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai tác phẩm trên, chân lí đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người.

– Họ đều mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam kiên trung trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm:

+ Tnú từ nhỏ đã gan dạ, đi liên lạc bị giặc bắt được, tra tấn dã man vẫn không khai. Anh vượt ngục trở về, lại là người lãnh đạo thanh niên làng Xô Man chống giặc, bị đốt mười ngón tay vẫn không kêu rên trước mặt kẻ thù à Ở Tnú toát lên vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại chống Mĩ.

+ Việt bị thương trong trận đánh lại lạc mất đơn vị, vẫn chắc tay súng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Đối với chị, Việt ngây thơ, nhỏ bé. Còn trước kẻ thù, Việt vụt lớn lên, chững chạc trong tư thế người anh hùng.

– Chủ nghĩa anh hùng cách mạng không chỉ thể hiện ở từng nhân vật , mà còn thể hiện ở tập thể nhân vật anh hùng, và mỗi nhân vật đều tượng trưng cho phẩm chất của cả cộng đồng: Cụ Mết, Mai, Dít, Heng trong “Rừng xà nu”; ba, má, chú Năm trong “Những đứa con trong gia đình”. Họ đều là những con người yêu quê hương đất nước, gắn bó với buôn làng, với gia đình, với người thân yêu. Tình yêu tổ quốc của họ bắt đầu từ những tình cảm bình dị đó, cho nên nó càng bền bỉ, càng có sức mạnh lớn lao khiến kẻ thù phải run sợ.

--> Tóm lại, các nhân vật của hai truyện ngắn đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh thần quả cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả dân tộc Việt Nam, là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

– Chủ nghĩa anh hùng cách mạng còn thể hiện ở sức sống bất diệt của con người Việt Nam trong cuộc chiến đấu ác liệt:

+ Dân làng Xô Man như rừng cây xà nu mặc dù “ Trong rừng hàng vạn cây, không cây nào không bị thương”, nhưng vẫn “ ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”, một cây ngã xuống thì bốn năm cây con mọc lên. Mai hi sinh thì Dít vươn lên thay thế, Heng như cây xà nu non hứa hẹn trở thành cây xà nu cường tráng tiếp nối cha anh. Tầng tầng, lớp lớp những người dân Xô Man Tây Nguyên tiếp nối đứng lên kiên cường chiến đấu với quân thù để bảo vệ quê hương đất nước mình.

+ Ông nội bị giặc giết, cha của Chiến và Việt trở thành cán bộ Việt Minh, cha bị giết hại dã man, má Việt tiếp tục nuôi con và chiến đấu, đến khi má ngã xuống thì anh em Chiến và Việt lại tiếp nối con đường chiến đấu, thực hiện lí tưởng của gia đình, và trong dòng sông truyền thống của gia đình, họ là khúc sông sau nên hứa hẹn đi xa hơn cả thế hệ trước.

Sự tiếp nối và kế thừa đó đã làm nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam thời chống Mĩ, là sức sống bất diệt giúp họ vượt qua bao đau thương do kẻ thù gây ra để tiếp tục chiến đấu và chiến thắng.

3. Về chất sử thi trong hai truyện ngắn: Góp phần thể hiện thành công chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Nghệ thuật sử thi đòi hỏi tác phẩm tập trung phản ánh những vấn đề cơ bản nhất, có ý nghĩa sống còn của đất nước; phản ánh được chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng

– Đề tài: cuộc chiến đấu của dân tộc chống lại kẻ thù xâm lược.
– Chủ đề: ngợi ca phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ.
-Nhân vật chính: Là những con người tiêu biểu cho cộng đồng về lí tưởng và phẩm chất, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu hi sinh.
– Giọng văn: ngợi ca, thấm đẫm cảm hứng lãng mạn cách mạng.

Hai truyện ngắn là hai bản anh hùng ca thời đại đánh Mĩ.

III. KẾT LUẬN: Qua hai tác phẩm, ta thấy:

– Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại chống Mĩ hiện diện trên khắp mọi miền của đất nước. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi, từ đồng bằng đến miền núi. Tất cả tạo nên một sức mạnh long trời lở đất để “ nhấn chìm lũ bán nước và quân cướp nước”.

– Cuộc đời và sự hi sinh của những con người Việt Nam anh hùng mãi mãi là bản anh hùng ca tuyệt đẹp cho các thế hệ Việt Nam noi theo.

Phân tích nhân vật Việt và Chiến trong “Những đứa con trong gia đình” – Ngữ Văn 12

Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi gắn liền với không khí của những ngày kháng chiến chống đế quốc Mỹ quyết liệt và hào hùng. Câu chuyện kể về những đứa con trưởng thành trong gia đình lớn cách mạng, hun đúc những vẻ đẹp truyền thống của quê hương. Mỗi một nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện một cách đặc sắc phẩm chất, cá tính của con người Nam Bộ trung dũng kiên cường, gắn bó với gia đình, quê hương, trung thành với cách mạng.

Tác phẩm được xây dựng theo kết cấu truyện ngắn hiện đại: là mạch hồi ức của anh tân binh Việt, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, nối kết một cách tự nhiên tình cảm gia đình – quê hương – cách mạng. Không gian giàu kịch tính và thời gian nghệ thuật của tác phẩm tạo nên sự đan cái của những câu chuyện kể không theo trình tự tuyến tính mà có sự sắp xếp hợp lý, tạo ra sự liên tưởng nhiều chiều. Xoay quanh nhân vật trung tâm là hai chị em Chiến và Việt còn là hệ thống hình tượng nhân vật gắn bó với nhau trong tình ruột thịt, có những nét bản chất thống nhất như chảy ra trong cùng huyết thống, nhưng mỗi người một vẻ không ai giống ai. Chính những nét tiêu biểu đó đã góp phần tái hiện thành công phẩm chất đáng quí của những con người quê hương Nam bộ giàu lòng yêu nước, căm thù giặc, giúp người đọc hiểu rõ hơn về một thời đại hào hùng và giá trị nhân bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Những nhân vật trong gia đình được giới thiệu gắn với hình ảnh thân thương của quê hương và những kỷ niệm cụ thể thời thơ ấu dữ dội của anh tân binh Việt. Chiến đấu giữa bầy giặc Mỹ, bị thương, lạc đồng đội, người chiến sĩ ấy giữa cơn mê tỉnh chập chờn đã nhớ về những hình ảnh thân thương nhất từ thời ấu thơ. Dường như đó chính là nguồn sức mạnh giúp anh vượt qua cái chết tìm về sự sống, tìm về đồng đội. Những con người trong gia đình Việt gắn với hồi ức thiêng liêng và cảm động làm sống dậy cả một quá khứ yêu thương và căm thù: chị Chiến, má, chú Năm. Hiểu theo một nghĩa rộng, đó cũng là những đứa con trong gia đình lớn: cách mạng.
Tất cả những con người ấy cùng giống nhau ở lòng căm thù giặc sâu sắc, vì những tội ác mà chúng đã gây ra với người thân trong gia đình. Gắn bó với mảnh đất quê hương, những con người ấy còn giàu tình nghĩa, trung thành với cách mạng bởi cách mạng đã đem lại cho họ sự đổi đời thật sự. Dường như anh chiến sĩ Việt đã thừa hưởng được từ thế hệ đi trước, chú Năm và má, hành động dũng cảm gan góc và lòng say mê khao khát được đánh giặc. Trong các nhân vật được tái hiện, chú Năm và má được khắc hoạ với những nét riêng độc đáo.

Chú Năm thể hiện đầy đủ bản tính tự nhiên của người nông dân Nam bộ hiền lành chất phác, giàu cảm xúc mơ mộng nội tâm. Một người từng trải qua đắng cay của cuộc đời làm mướn trước cách mạng, để thành bản tính ít nói. Đau thương hằn sâu từ cuộc đời gian khổ và với tư cách chứng nhân của tội ác của thằng Tây, thằng Mỹ và bọn tay sai phải chăng đã làm nên nét đa cảm trong gương mặt với đôi mắt lúc nào cũng mở to, mọng nước.Chất Nam bộ rặt trong con người ông thể hiện qua việc hay kể sự tích cho con cháu, và kết thúc câu chuyện thể nào cũng hò lên mấy câu. Nét đặc biệt độc đáo ở người đàn ông này là có sổ ghi chép chuyện gia đình. Cuốn sổ ghi đầy đủ những chuyện thỏn mỏn của nhiều thế hệ, như minh chứng cho tấm lòng thuần hậu của ông. Đoócòn là những trang ghi chép tội ác của kẻ thù gây ra, những chiến công của từng thành viên, như một biên niên sử. Bản thân ông cũng chính là một trang sử sống, khi gửi gắm, nhắn nhủ cho hai chị em Chiến và Việt: “chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó…”. Nhân vật đã thể hiện vẻ đẹp của tấm lòng sắt son, ý thức trách nhiệm của thế hệ đi trước.

Má của Chiến và Việt là hội tụ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Nam bộ anh hùng trong kháng chiến. Những ấn tượng tác giả để lại đậm nét trong người đọc về nhân vật này là về tính gan góc từ khi còn là con gái. Người đàn bà hết lòng thương yêu chồng con ấy đã phải trải qua thời khắc dữ dội khi kẻ thù chặt đầu chồng, nhưng má đã vượt lên đau thương để nuôi dạy đàn con khôn lớn trưởng thành. Hình ảnh người mẹ ấy đối mặt với họng súng quân thù như gà mẹ xoè cánh che chở đàn con, khiến kẻ thù phải run sợ trước đôi mắt của người vượt sông vượt biển. Nuôi con và cả con của đồng chí, má là hiện thân của vẻ đẹp gan góc được tôi luyện trong đấu tranh, với đức hy sinh vô bờ bến lặng thầm, tảo tần lam lũ, đau thương chôn kín trong giọt nước mắt lặng lẽ kín đáo. Trong tâm hồn người phụ nữ ấy là tình yêu lớn lao, ý chí bất khuất kiên cường và cả tinh thần dám hy sinh, đổi mạng sống vì cách mạng.

Hai chị em Chiến và Việt đã được thừa hưởng tất cả những vẻ đẹp của thế hệ đi trước, tính cách được tạo nên từ truyền thống gia đình, từ hoàn cảnh đặc trưng: thương cha má, cùng chung lo toan công việc cách mạng, giàu tình nghĩa với quê hương. Không phải ngẫu nhiên hai chị em đã cùng xung phong tòng quân một ngày, để trả mối thù cha bị chặt đầu, má bị trái cà nông quân thù sát hại. Trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc chiến đấu, biết căm thù cũng là một phẩm chất cần thiết, bởi căm thù giặc tàn phá quê hương, sát hại người thân cũng là một biểu hiện sâu sắc của tình yêu với quê hương, gia đình! Bởi vậy đêm tòng quân không chỉ có hai chị em tranh nhau ghi tên mà thanh niên trong xã ghi tên tòng quân cũng rất đông. Hành động của hai chị em có sự đồng tình của chú Năm, như một điểm nhấn hành động này hoàn toàn không phải là tự phát mà gắn với ý thức giác ngộ của tuổi trẻ trên quê hương đau thương và anh dũng.

Kí ức của Việt gắn với hình ảnh của chị Chiến, với kỷ niệm tuổi thơ trong trẻo của hai chị em. Người con gái ấy có cá tính riêng, có những nét giống má, gan góc, chăm chỉ, đảm đang tháo vát. Hai chị em kề tuổi nên có lúc còn rất trẻ con, nhưng bao giờ trong những lần cãi vã thì chị cũng nhường em. Đến khi tham gia công việc cách mạng, Chiến tỏ ra chín chắn hơn Việt. Những mất mát đau thương đã khiến cô gái ấy sớm trưởng thành, nhưng không hề làm chai sạn tâm hồn giàu nữ tính. Lúc nào Chiến cũng có cái gương nhỏ, như những người con gái mới lớn nào cũng thích làm duyên. Câu chuyện của hai chị em trước đêm tòng quân đã chứng tỏ khả năng quán xuyến, thay thế vai trò của mẹ để chăm em, khiến cho bản thân cậu em thân thiết phải ngạc nhiên vì chứng kiến một chị Chiến giống in như má, răm rắp nghe theo sự cắt đặt của chị.

Một trong những tình tiết truyện tạo được xúc động mạnh cho người đọc là hình ảnh hai chị em trước đêm tòng quân khiêng bàn thờ má qua gửi chú Năm. Hai chị em đã làm cho người chú phải ngạc nhiên vì sự trưởng thành trước tuổi. Đó là chi tiết cho thấy những đứa con trong gia đình cách mạng này đã ý thức rõ chỉ có lên đường diệt giặc mới trả được mối thù giặc Mỹ đè nặng hai vai. Việc nhà việc nước vẹn toàn, lời động viên của chú Năm dành cho hai chị em đã thể hiện niềm tin tưởng vào thế hệ trẻ thời chống Mỹ.

Xuyên suốt mạch truyện là dòng hồi ức của Việt, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Người chiến sĩ ấy vốn là đứa trẻ gan dạ từng chứng kiến cảnh kẻ thù quăng đầu cha mà xông tới nhằm thằng liệng đầu mà đá. Được dìu dắt từ ấu thơ, Việt cũng đã biết làm cảnh giới, chiếc ná cao su thành vật báo hiệu khi có động. Bản tính hồn nhiên của một cậu bé mới lớn thể hiện ra ở sự hiếu thắng, lúc nào cũng giành phần hơn, nhưng từ sâu thẳm là tình cảm yêu thương những người ruột thịt, tự hào với truyền thống quê hương. Những lần ngất đi tỉnh lại của Việt giữa bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc đã giúp anh có thêm sức mạnh tình thương vượt lên cái chết để trở về đội ngũ. Nguyễn Thi đã thành công khi không miêu tả vào những chiến công của anh chiến sĩ mà đã chỉ ra cho người đọc vẻ đẹp nhân văn trong tâm hồn người cầm súng. Vẻ đẹp ấy là hội tụ của ý chí, quyết tâm và trên hết là tình thương yêu sự gắn bó với người thân và sau này là tình cảm chan hoà thân ái giữa cậu Tư với đồng chí đồng đội như trong một nhà.

Tác phẩm thành công khi đã đem lại cho người đọc sự hình dung về mảnh đất Nam Bộ anh dũng và đau thương trong những ngày kháng chiến chống Mỹ. Đạc biệt, bằng sự am hiểu sâu sắc bản chất của người dân Nam Bộ yêu nước, tác giả đã dựng nên những con người vừa bình thường giản dị nhưng lại có vẻ đẹp, tầm vóc phi thường của con người thời đại chống Mỹ cứu nước. Giọng kể chuyện giản dị, xây dựng đối thoại tự nhiên và nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật đặc sắc đã để lại ấn tượng khó quên về những đứa con trong gia đình cách mạng. Đồng thời còn phát hiện sâu sắc về sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến đấu. Vẻ đẹp ấy kết tinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam, một phẩm chất cao quí còn để lại những tấm gương cho thế hệ sau noi theo.

Đoạn kể lại hai chị em Việt, Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm trong đoạn trích Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi gây cho người đọc nhiều xúc động. Hãy phân tích – Ngữ Văn 12

Đoạn kể lại hai chị em Việt, Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm gây cho người đọc nhiều xúc động

Đoạn kể hai chị em Việt, Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm có giá trị tư tưửng đặc sắc. Đoạn văn ấy chẳng những bộc lộ lòng căm thù giặc sâu sắc, quyết tâm trả thù cho ba má, quê hương mà còn cho thấy tâm tình thành kính thiêng liêng của hai người con đối với cha mẹ. Chiến tỏ ra chu đáo đảm đang. Việt đồng lòng nhất trí với cách làm của chị. Cả hai chị em biết bảo nhau, thương yêu nhau, biết thu vén trọn vẹn chuyện gia đình để yên tâm lên đường đánh giặc. Những tình tiết ấy gây xúc động xâu xa đối với người đọc.

Phân tích nét đặc sắc về tầm khái quát nghệ thuật đồng hiện trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Ngữ Văn 12

Nhà văn Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, người Nam Hà. Ông vào Nam từ năm 1945, gia nhập quân đội và viết văn dưới bút danh Nguyễn Khọc Tấn. Tập kết ra Bắc năm 1954, năm 1962 ông trở lại miền Nam lần thứ hai, viết văn dưới bút danh Nguyễn Thi. Năm 1968, ông hi sinh tại Sài Gòn trong lúc ngòi bút còn đầy sung sức và nhiệt huyết. Là nhà văn chiến sĩ, Nguyễn Thi có nhiều đóng góp cho nền văn học cách mạng. Một trong những đóng góp đáng kể của ông về nghệ thuật là sự thể hiện thành công nghệ thuật đồng hiện ở truyện Những đứa con trong gia đình (1966).

Theo nghĩa đen “đồng hiện” là “cùng thể hiện”. Trong truyện, đây chỉ là một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc về kết cấu tác phẩm, một yếu tố thuộc về hình thức. Như ta đã biết , kết cấu là việc tổ chức, sắp xếp các yếu tố nội dung trong văn bản tác phẩm để nó đạt hiệu quả nghệ thuật cao nhất. Thủ pháp đồng hiện góp một vai trò quan trọng trong công việc này. Nó là một trong những thủ pháp tạo ra được lối kết cấu độc đáo. Từ đó, cốt truyện, nhân vật, chủ đề được thể hiện, gây hiệu quả nghệ thuật tác động đến độc giả… Nét độc đáo của nghệ thuật đồng hiện là cùng một lúc các sự kiện, các tình tiết, các nhân vật (hay các nét tính cách của nhân vật) được thể hiện trong một thời gian, một không gian hay trong một mảnh thời gian và không gian khác nhau.

Trong truyện Những đứa con trong gia đình nghệ thuật đồng hiện được thể hiện khá tinh tế. Dựa trên kết cấu lấy dòng suy tưởng làm nền. Nguyễn Thi đồng thể hiện các sự kiện trong một thời điểm, các nhân vật (và các nét tính cách của nó) trong cả hai mảnh thời gian hiện tại và quá khứ đan xen nhau rất có hiệu quả.

Trước hết xin nói về cách đồng hiện các sự kiện trong một thời điểm ở truyện Những đứa con trong gia đình.

Sau cuộc giao tranh ác liệt giữa đơn vị của Việt và một chiến đoàn Mĩ, Việt bị thương nặng, ngất đi. Việt tỉnh dậy, trận địa vắng tanh, “trừ tiếng máy bay”. Chiến trường vẫn còn nguyên vẹn với những chiếc xe tăng, xe bọc thép cháy, những vỏ đạn tanh máu, xác lính Mĩ bốc mùi… “Việt cho mũi lê đi trước”, “Lên đạn”… sẵn sàng “phụ với các anh”, trận đánh được miêu tả hình như chưa kết thúc. Thời điểm để nhà văn chọn miêu tả thời gian trước và sau trận đánh hình như là thời điểm ở giữa thời gian này? Mặt khác, những chi tiết truyện, theo phân tích trên, không phải là đã kết thúc, cũng không phải là đang xảy ra. Nó là sự kiện đang xảy ra. đã xảy ra và được nhìn trong cái đã kết thúc, sắp kết thúc. Nói cho dễ hiểu hơn, người ta thấy được trận đánh đã và sẽ xảy ra như thế nào ở một thời điểm ở trong nó. Nhìn vào những gì xảy ra ở thời điểm đó, người ta thấy tất cả.

Bây giờ thì Việt đã ở quân y viện. Anh có thời gian trị vết thương, đồng thời cũng có cả thời gian để mà ôn lại, nhớ lại. Thành ra anh có thể thấy được cả mảng đời trong hiện tại của mình và có thể nhớ lại cả mảng đời của gia đình mình trong quá khứ. Anh như lần về quá khứ từ gần đến xa lắc. Thông qua dòng độc thoại diễn ra trong Việt ở các thời điểm nằm ở quân y viện kia bao nhiêu sự kiện vui buồn, bao nhiêu số phận con người trong chiến tranh như cùng về một lúc. Lần lượt nhưng không theo một trình tự nào, Những đứa con trong gia đình giàu truyền thông cách mạng của anh được tái hiện ở những nét tính cách chung và riêng rẽ như họ đang ở trước mặt.

Nhân vật trung tâm là Việt. Dù ở thời gian, không gian nào, nhân vật cũng được khắc họa song song hai nét tính cách cơ bản: chiến sĩ – trẻ thơ.

Ở quân y viện “Hai mắt còn khăng kín mít” dấu tích của người lính dũng cảm. Việt “với cây viết chì… mò mò viết thử”. Anh không dám nhờ người khác viết thư cho chị. Anh sợ cái tiếng “cậu tư”. Sợ mất “chị ba” quyết chiến. Anh “giấu chị như giấu của riêng vậy”. Thật là ngây thơ! Cái ngây thơ đáng yêu của một anh lính trẻ, dũng cảm thật đấy mà cũng khờ khạo thật đấy trước cuộc đời. Ngay cả chuyện đùa vui của anh em theo lối tếu táo của lính anh cũng tưởng là chuyện thật!

Trên chiến trường ngổn ngang xác giặc, Việt ngất đi rồi tỉnh lại nhiều lần dù đã kiệt sức, người lính trẻ ấy vẫn sẵn sàng chiến đấu tiếp nếu kẻ thù xuất hiện. Thế mà khi nghe “ếch nhái kêu dậy lên”, Việt bỗng trở thành chú bé con có “hai cái đèn soi, lóp ngóp đi” soi ếch cùng chị. “Chiến và Việt ai cũng giành phần nhiều là của mình “, em cũng không chịu nhường ai đi trước, chú Năm phải đứng ra “xin trên cứ ghi tên cho cả hai”…

Qua một vài điều đã nói trên, ta thấy thủ pháp nghệ thuật để thực hiện nghệ thuật đồng hiện trong khi khắc họa nhân vật Việt, chủ yếu dựa trên cơ sở của phép liên tưởng, phép bắc cầu từ sự kiện này sang sự kiện khác; từ chi tiết, nhân vật này sang chi tiết nhân vật kia… Trong sự liên kết đó, dòng hồi tưởng của nhân vật vẫn là sợi dây nối quan trọng nhất. Từ chi tiết anh em trong quân y viện gọi anh là “cậu tư”. Việt chợt nhớ tới chị Chiến, nhớ tới tiểu đội trưởng Tánh. Anh muốn viết thư cho chị nhưng khó có thế viết được vì hai mắt vẫn còn bị băng kín. Thế là Việt nhớ lại lần chị bị trúng bom, nhớ lại trận đánh của chính mình. Việt nhớ lại trong trận đánh, anh đã ngất đi; tỉnh lại, bỗng nghe thấy tiếng ếch và cùng lúc đó, tuổi thơ, những ngày xa xưa uất hận cùng ùa về trong trí nhớ… Các tình tiết truyện diễn ra rất tự nhiên. Thủ pháp nghệ thuật này ta đã gặp ở truyện: Đôi mắt của Nam Cao. Ở đó, câu chuyện cũng diễn ra theo dòng hồi tưởng của nhân vật Độ. Khác chăng là Nam Cao để Độ xưng “tôi” và tự kể. Còn ở đây, Nguyễn Thi trực tiếp miêu tả diễn biến tâm trạng Việt. Ông vừa miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật vừa để cho tâm trạng ấy nói lên câu chuyện mình muốn kể. Có lẽ đây cũng là một lối kể chuyện độc đáo, sáng tạo.

Vẫn bằng cách trên, theo dòng độc thoại của nhân vật Việt, tác giả lần lượt cho xuất hiện và đồng hiện các nhân vật Chiến, chú Năm, ba má Việt, Tánh.

Cũng như Việt, Chiến tòng quân và chiến đấu trong một tiểu đội bộ đội nữ địa phương. Chị đã chiến đấu dũng cảm, coi cái chết cũng chỉ như “chết giấc”, ‘như ta đang ngủ vậy”. Chiến chỉ khác Việt ở chỗ, là người chị cả trong gia đình nên sớm trường thành. Chị theo mẹ nuôi và dạy dỗ em, lo toan tính toán tất cả mọi việc trong nhà. Là người chị cả của gia đình, Chiến dứt khoát không nhường em là việc ghi tên để tòng quân. Nhớ và nghĩ về người chị, dòng tâm tưởng của Việt như cố dừng lại ở những kỉ niệm đẹp khó quên.

Chú Năm cũng chỉ là một nhân vật thoáng qua trong dòng tâm tưởng, gợi lên từ một tiếng ếch trên chiến địa đã im tiếng súng.. Mỗi lần Việt và Chiến soi ếch về, chú đều “kiếm con trọng trọng đem về nhậu”. Có hai đoạn văn đẹp như thơ là đoạn chú Năm “nhậu vào ba hột là chú nói tới”, hay “hò lên mấy cáu”. Câu hò khiến chú xúc động “đôi mắt mở to, đọng nước. Đoạn văn khác kể về cuốn sổ gia đình chú ghi, hầu để sau này “giao… cho chị em bây”. Cuốn sổ lần về quá khứ lẫn trong hiện tại, không theo năm tháng. Đó là chứng tích lịch sử được khơi dậy lại, chéo lại bởi cái nhìn, cái cảm, cái yêu, cái ghét cùa một tính cách Nam Bộ trọng nghĩa, bộc trực, sôi nổi, yêu đời.

Ba và má Việt hiện về trong Việt như những kỉ niệm về lòng yêu thương và căm thù. Tình yêu cùa ba má, con đường của ba và tội ác của giặc khiến chị em Việt không thể không lên đường cứu nước. Những đoạn văn này Nguyễn Thi như đồng cảm với nhân vật và viết nên bằng nước mắt. Đọc, thấy xúc động cùng nhân vật; đau nỗi đau cùng nhân vật…

Hai nét chính yếu của Nghệ Thuật đồng hiện trong Những đứa con trong gia đình mà ta vừa phân tích trên, có nhiều tác dụng đối với truyện. Chính nó làm cho câu chuyện thảm khốc và hào hùng, đậm đà tình người… tưởng như chập chờn, dứt nối, rời rạc., liền lại trong mạch ngầm tâm tường khá chặt chẽ. Chặt chẽ nhưng vẫn giữ được cái vẻ bề bộn của tầng tầng lớp lớp chi tiết trong cuộc sống thường và trong chiến trận hồi chiến tranh. Các mảng sự kiện, những đoạn đời trong quá khứ và hiện tại như được cố tình đan chéo vào nhau, bố sung cho nhau một cách hợp lí, làm cho tính cách nhân vật được khác họa rõ nét và chủ đề truyện được bộc lộ khá nổi bật. Lối kết cấu đặc biệt này buộc tác giả phải đi đến tận cùng trong việc phân tích và diễn đạt diễn biến phức tạp nhưng tinh tế của tâm lí nhân vật. Nó cũng đòi hòi nhà văn phải nhập thân như người trong cuộc, am hiểu và đồng cảm với nhân vật. Tất cả những điều này, Nguyễn Thi đều vượt qua và thể hiện rất thành công.

Nghệ thuật đồng hiện trong Những đứa con trong gia đình có tầm khái quát bởi những thủ pháp chính của lối kết cấu này hầu hết đã được Nguyễn Thi thể hiện thành công trong truyện. Thực ra lôi kết cấu này không mới. Cái mới ở đây là nó được thực hiện khá toàn diện và đạt được những đỉnh cao. Những đỉnh cao này ghi dấu những đóng góp quý báu của Nguyễn Thi trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, đặc biệt là bộ phận văn học viết về đề tài chiến tranh và cách mạng.

Ấn tượng về tính cách, cá tính của các nhân vật Việt, Chiến, chú Năm – Ngữ Văn 12

BÀI LÀM

Viết về gia đình trong chiến tranh – sự chuyển giao thế hệ cầm súng để đánh giặc ta bắt gặp ở thơ Tố Hữu hình ảnh:

“Lớp cha trước lớp con sau

Đã hành đồng chí chung câu quân hành”.

Trong thơ Hoàng Trung Thông:

“Ta lại viết bài thơ trên báng súng

Con lớn lên viết tiếp thay cha”

Nguyễn Quang Sáng với tác phẩm Chiếc lược ngà và hình ảnh cô giao liên Thu nhanh nhẹn, thông minh vào chiến trường để vừa trả thù cho cha vừa đánh giặc cứu nước. Đến với Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi ta lại bắt gặp sự chuyển giao và tiếp nối đó qua câu chuyện của các nhân vật trong tác phẩm.

Trong tác phẩm của mình tác giả đã viết về một gia đình lớn với rất nhiều nhân vật nhưng độ đậm nhạt của từng nhân vật không giống nhau. Tác giả chia thành hai tuyến nhân vật để mô tả một gia đình. Đó là những nhân vật thuộc thế hệ cha anh và những nhân vật thuộc thế hệ con cháu.

Nhắc đến nhân vật chú Năm không thể không nhắc đến những chi tiết này: giọng hò, cuốn sổ gia đình và triết lí về sông nước của chú. Chú Năm rất hay hò, nhưng tiếng hò của chú không chỉ đơn giản là hò hát để giải sầu mua vui của một người làm nghề sông nước. Trái lại, tiếng hò ấy là hình thức để bày tỏ tâm huyết bên trong của mình. Cho nên khi chú hò là khi chú muốn gửi gắm tâm sự cách mạng của mình vào trong giọng hò đó: “Chú già rồi, giọng hò đã đục và tức như gà gáy. Lúc đó gân cổ chú nổi lên, tay chú đặt lên vai Việt, đầu chú lắc lư, nhắn nhủ làm như Việt chính là nơi cụ thể để gửi gắm những câu hò đó”. Đến khi thấy Việt và Chiến đã lớn, chú hoàn toàn tin rằng Việt và Chiến đã đủ sức để gánh vác những việc lớn của xã hội, thì chú cũng cất lên tiếng hò. Tiếng hò này là sự lên tiếng của bầu nhiệt huyết, sự lên tiếng của lòng yêu nước thâm sâu trong con người chú Năm.

Bên cạnh đó là hình ảnh cuốn sổ gia đình. Cuốn sổ nhỏ này có một ý nghĩa thật đặc sắc. Nó vừa là một cuốn gia phả, vừa là một cuốn lịch sử, vừa là bảng vàng ghi công để tuyên dương công trạng, vừa là một tấm bia căm thù để khắc sâu những món nợ máu đối với đế quốc, vừa là cuốn nhật ký ghi lại những việc hàng ngày, vừa như một bản quyết tâm thư của cả một đại gia đình…mà nói chung cuốn sổ này như một thứ biểu tượng về sứ mạng lịch sử. Trước kia cuốn sổ do thế hệ cha anh giữ gìn và ghi chép. Nay, khi thế hệ con cháu đã trưởng thành, chú Năm lại đem cuốn sổ kia giao cho thế hệ mới để thế hệ này viết những trang mới cho gia đình. Cho nên Những đứa con trong gia đình cũng chính là câu truyện về một cuộc chuyển giao lịch sử.

Chú Năm là nhân vật tiêu biểu cho phẩm chất của một người Nam Bộ, với một lòng yêu nước, yêu quê hương gần như bản năng. Trong câu chuyện chú Năm chỉ là nhân vật phụ (so với chị em Việt và Chiến), nhưng chính vật này đã giúp cho Nguyễn Thi bộc lộ khá sâu sắc tư tưởng của cả câu chuuyện giúp cho Nguyễn Thi ca ngợi được chủ nghĩa anh hùng cách mạng của người Việt Nam trong kháng chiến.

Nhân vật trung tâm của câu chuyện này vẫn là Việt và Chiến. Đây là thành công đáng kể nhất của Nguyễn Thi trong Những đứa con trong gia đình. Chọn những nhân vật như Việt và Chiến để mô tả, Nguyễn Thi đã đứng trước một thách thức đáng sợ. Bởi vì Việt và Chiến ở vào một lứa tuổi khá đặc biệt. Họ không còn là những đứa trẻ con, nhưng cũng chưa hẳn là người lớn. Hơn nữa Việt và Chiến lại không thật cách nhau về tuổi tác, một người là con gái, một người là con trai, cho nên làm thế nào để tả được nhân vật nào ra nhân vật ấy điều không hề đơn giản. Nhưng chúng ta thấy, cuối cùng Nguyễn Thi đã hoàn thành công việc của mình khá hoàn hảo.

So sánh nhân vật Việt và Chiến, chúng ta sẽ thấy sự sinh động đầy thuyết phục của hai nhân vật này. So sánh hai nhân vật này trước hết ta thấy những điểm giống nhau của họ, giống như mọi thành viên trong đại gia đình này.Việt và Chiến cũng có một tinh thần yêu quê hương đất nước và căm thù giặc sâu sắc. Dường như đây là dòng máu chung của đại gia đình này, cứ chày từ bầu tâm huyết của thế hệ này sang huyết quản của thế hệ khác. Tình yêu quê hương của họ gần như là bản năng. Nhất là lòng căm thù. Tuy là những đứa trẻ mới lớn nhưng Việt và Chiến đã khắc sâu trong tâm khảm mình mối thù với những kẻ đã giết hại ba má mình. Thậm chí, họ coi ý nghĩa của toàn bộ đời mình giờ đây là ở chỗ: phải trả thù bằng được cho ba má. Chính vì nung nấu mối thù này mà cả Việt và Chiến đều rất giàu ý chí. Mối thù mang trong lòng ấy đã làm cho họ lớn nhanh hơn, khẩn trương hơn. Khi nghe chú Năm nói lần này ra đi, thù ba má chứa trả mà trở về thì chặt đầu, nhân vật Việt đã nói tỉnh queo: Chị có bị chặt đầu thì bị chứ chừng nào tôi mới bị. Còn Chiến thì cũng khẳng khái nói: Tao đã nói rồi, làm thân con gái ra đi chuyến này, nếu địch còn thì lao mất, vậy à!.

Cả hai chị em đều là những người chiến đấu hết sức quả cảm. Họ đã từng phối hợp với địa phương quân tiêu diệt tàu chiến của địch trên sông Định Thuỷ. Mặc dù còn thiếu năm, thiếu tháng mới đủ tuổi đi bộ đội, nhưng cả hai chị em đều xung phong đăng ký tòng quân. Bị lạc trong rừng, bị thương nhưng Việt vẫn đeo bám được xe tăng địch, dùng lựu đạn ném vào buồng lái tiêu diệt được xe tăng. Như thế Việt và Chiến xứng đáng là những đứa con của một gia đình giàu truyền thống. Chỉ cần đôi nét mà Nguyễn Thi đã dựng lên được chân dung cả đại gia đinh.

Tuy nhiên, sự độc đáo của ngòi bút Nguyễn Thi chưa phải bộc lộ ở những điểm giống nhau của hai nhân vật Việt và Chiến mà chính là thể hiện ở những nét vẽ khác nhau về họ. Hai nhân vật này hiện ra với những nét cá tính riêng biệt không thể nhầm lẫn. Nếu không phải là một người hiểu biết tâm lý giới tính và tâm lý thế hệ chắc chắn Nguyễn Thi không thể có được thành công ấy. Chị Chiến đúng là một cô gái. Còn Việt rõ ràng là một bé trai mới lớn. Chị Chiến chăm chỉ, cần mẫn, kiên nhẫn bao nhiêu thì Việt tỏ ra đại khái, nôn nóng xốc nổi bấy nhiêu. Hai chị em cùng đọc cuốn sổ gia đình của chú Năm, nhưng Việt không thể ngồi được lâu. Đánh vần được vài trang, Việt không thể tục được, chú bỏ đi câu cá, vặt ổi. Còn chị Chiến kiên nhẫn ngồi từ trưa cho xế chiều, từ xế cho đến chạng vạng tối, lần theo những nét chữ khi mờ khi tỏ, khi đứng khi xiên của chú Năm để đọc cho bằng hết cuốn sổ đó. Là con gái cho nên Chiến ít lời, kín đáo hơn, thường lặng lẽ làm việc, âm thầm suy nghĩ, ít nói năng, phát biểu. Còn Việt thì hiếu động, nông nổi, “ruột để ngoài da”. Là con gái nên Chiến cũng hay chú ý đến hình thức của mình, lúc nào trong túi cũng có một gương nhỏ, lúc nào rãnh việc hoặc giữa hai trận đánh lại lấy ra soi…

Là chị gái nên chị Chiến sẵn sàng nhường nhịn em, mặc dù với sự gần nhau về tuổi tác, việc nhường nhịn chẳng dễ dàng gì. Còn Việt thì cậy thế làm em bao giờ cũng có tâm lí đòi hỏi chị phải hi sinh cho mình, cho nên thường hiếu thắng và đành hanh, chành choẹ với chị. Đi bắt ếch về khi chút vào thùng cả Việt và Chiến đều giành phần nhiều về mình, nhưng bao giờ cuối cùng Chiến cũng nhường em. Khi đánh tàu trên sông Định Thuỷ, Việt giành công mình bắn trước, Chiến cũng nhường em nốt, ở những việc như thế, tư cách chị là sẵn sàng nhường nhịn. Nhưng có một việc Chiến cương quyết không nhường, ấy là việc ghi tên tòng quân. Nhưng tính cách của người chị lại cũng chính là ở chỗ đó. Thực ra đây là một đức hi sinh lớn, một sự nhường nhịn lớn. Chiến muốn giành cho em sự an toàn, yên ổn, còn giành về phần mình sự nguy hiểm của chiến trận. Là người chị cho nên Chiến tỏ ra chín chắn, già giặn, chu đáo còn Việt thì nông nổi, cạn nghĩ. Một trong những tình tiết cảm động nhất của câu chuyện là cuộc bàn bạc của hai chị em vào cái đêm cuối cùng trước khi ra trận. Họ phải làm những phần việc quá sức so với độ tuổi của mình. Đó là việc nhà của những tài sản, mấy công đất, việc nuôi dạy thằng em út, việc hương khói cho ba má… chị Chiến đã suy nghĩ kĩ lưỡng, nhưng trong nhà chỉ có hai chị em, cho nên Chiến vẫn đem ra bàn bạc một cách dân chủ. Tuy vậy, Chiến đã có chủ kiến từ trước, mọi việc đã được sắp xếp, cất đặt đâu ra đấy, khiến Việt thấy chị Chiến chín chắn, già giặn không ngờ “giống in như má”. Còn Việt, vừa nghe chị bàn những việc quan trọng, vừa để mắt đến mấy con đom đóm bay vào nhà, khi nó bay sát gần minh, Việt nhoài người chộp vào lòng bàn tay và trong lúc chị Chiến vẫn còn thao thao bất tuyệt thì Việt đã ngủ khì từ lúc nào. Việt đúng là còn nguyên tâm lí của một đứa trẻ mới lớn: đi đánh giặc không sợ chết nhưng lại sợ ma, khi gặp anh Tánh thì vừa cười lại vừa mếu, kể chuyện gia đình mình nhưng riêng chị Chiến, Việt giấu biệt. Đã đàng hoàng là một chiến sĩ giải phóng đeo trên cổ cái ná thun để bắn chim. Ngộ nhất là cái cách Việt hình dung về cái chết; chết là người thật nằm dưới nền nhà còn người giả thì bay lên mái nhà…

Có thể khẳng định rằng, Những đứa con trong gia đình đã kết tinh được trường của tác giả, sắc sảo trong việc lựa chọn chi tiết để làm nổi bật cá tính của nhân vật, Nguyễn Thi đã làm cho các nhân vật của mình vừa chân thực vừa mang tính điển hình, khái quát. Câu chuyện nhờ thế mà đi vào lòng người đọc và có sức sống lâu bền.

Hãy phân tích tâm lí và tính cách nhân vật Chiến – Ngữ Văn 12

Phân tích tâm lí và tính cách nhân vật Chiến

Chiến sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, cha mẹ của Chiến bị kẻ thù giết hại rất dã man. Chị sớm gánh trên vai mối thù sâu nặng.

Chiến giống mẹ ở tính gan góc, chăm chỉ đảm đang, biết thu xếp việc nhà việc cửa đâu vào đấy trước lúc lên đường. Chiến cũng giống mẹ cả ở ngoại hình “thân người to và chắc nịch”, “bắp tay tròn vo sạm đỏ màu nắng”. Nhân vật chú Năm nhận xét: “Chiến là một đứa con gái không khác mẹ chút nào”.

Do trải qua hoàn cảnh bi thương của gia đình, Chiến sớm trưởng thành, già dặn trước tuổi. Chị luôn tự hào về gia đình và sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ quê hương.

Chiến dồn tình thương vào đứa em côi cút, hết lòng chăm sóc, nhường nhịn em (từ việc đi bắt ếch đến chuyện thành tích bắn chết tên lính Mĩ). Ngoại trừ việc đi bộ đội và khí phách thì không nhường Việt.

Từ ngôn ngữ đến cử chi, hành động của nhân vật Chiến đều gợi ra hình ảnh người con gái Nam Bộ thật thà, chất phác, duyên dáng, đảm đang, tháo vát… Đó cũng là hình ảnh của người con gái Việt Nam nói chung.

Soạn văn lớp 12: Những đứa con trong gia đình

Câu 1:

– Truyện “Những đứa con trong gia đình” được trần thuật lại chủ yếu qua dòng hồi tưởng của nhân vật Việt, khi anh bị thương trong trận chiến, nhiều lần ngất đi rồi tỉnh lại, trong tư thế nửa tỉnh nửa mê.

– Cách trần thuật như vậy khiến truyện được kết cấu theo diễn biến của trí nhớ và ý thức, cảm xúc của nhân vật cứ lúc bị đứt ra rồi lại nối lại qua những lần ngất đi rồi tỉnh lại ấy.

+ Tạo nên nét mới trong việc thuật lại câu chuyện, tạo nên tính hấp dẫn hơn dưới ngôn ngữ, con mắt của chính nhân vật trong truyện.

+ Tính cách nhân vật được khắc họa rõ nét, độc đáo.

+ Tình tiết của câu chuyện không chịu gò bó theo một trình tự thời gian, không gian nhất định, mà được xáo trộn linh hoạt. Nhà văn đi sâu được vào thế giới nội tâm nhân vật để dẫn dắt truyện.

Ở đây qua dòng hồi tưởng của nhân vật Việt, hình ảnh của các nhân vật- các thành viên trong gia đình: ba, má, chị Chiến, chú Năm được lần lượt giới thiệu hiện rõ dần đồng thời bản thân Việt – người kể chuyện cũng bộc lộ ngày càng đầy đủ tư cách, tính cách, cảm xúc tình cảm của chính mình.

Câu 2: Truyền thống của những người trong gia đình hai chị em Việt – Chiến là tình yêu thương máu mủ ruột già, yêu nước mãnh liệt căm thù giặc sâu sắc.

– Chú Năm: đại diện cho truyền thống và lưu giữ truyền thống (trong câu hò, trong cuốn sổ …).

– Má Việt: cũng là hiện thân của truyền thống ấn tượng sâu đậm nhất ở người phụ nữ này là khả năng ghìm nén đau thương để sống và duy trì sự sống, che chở cho đàn con và tranh đấu.

– Việt và Chiến là hai đứa con của gia đình đã tự nguyện cầm súng chiến đấu báo thù cho ba mẹ bị giặc Pháp giết hại.

Câu 3: Nhân vật Việt và Chiến

a. Những nét tính cách giống nhau

– Cùng sinh trưởng trong một gia đình, có hoàn cảnh số phận giống nhau nên hai chị em có tâm lí, tính cách giống nhau.

+ Cùng ước nguyện được cầm súng đánh giặc để trả thù cho ba má.

+ Giành nhau đi tòng quân.

+ Cùng ý nghĩ khi khiên bàn thờ sang gửi nhà chú Năm để chị em đi đánh giặc.

– Dù còn nhỏ tuổi nhưng hành động của họ thật đáng khâm phục:

+ Chưa vào quân ngũ nhưng hai chị em đã bắn được tàu chiến của giặc trên sông Đinh Thủy.

+ Khi đi chiến đấu, Chiến là tiểu đội trưởng gương mẫu của bộ đội địa phương.

+ Việt phá được xe tăng của địch trong một trận giáp lá cà.

+ Dù bị thương nhưng khi tỉnh dậy, còn một ngón cái cử động được, Việt vẫn để tay lên cò súng, sẵn sàng chiến đấu.

– Hai chị em đều rất trẻ: (cách nhau một tuổi, chị mười chín, em mười tám) nên tính tình ngây thơ, hồn nhiên và dễ thương.

+ Giành nhau chuyện bắt ếch, đánh tàu giặc, giành nhau đi tòng quân.

+ Hay cãi nhau.

=> Cả hai đều giống nhau ở tấm lòng thương yêu cha mẹ, từ đó mà có lòng căm thù giặc sâu sắc. Tình cảm nung nấu, hun đúc thành ý chí sắt đá, thành lòng quyết tâm cao độ. Họ đều là những chiến sĩ dũng cảm, gan góc, lập được nhiều chiến công.

b. Những nét tính cách khác nhau

Chiến: là kiểu nhân vật phụ nữ thường gặp trong tác phẩm của Nguyễn Thi: sinh ra để gánh vác, để chịu đựng, và để chiến đấu.

– Sớm mất cha mẹ, Chiến đã trở thành người thay thế mẹ lo lắng cho em. Chiến có nét đảm đang tháo vát của người mẹ, tính toán thu xếp việc nhà chu đáo như người lớn.

– Chiến là người ý thức được truyền thống gia đình. Cô có thể bỏ ăn ngồi đánh vần từng chữ cuốn sổ ghi công của chú Năm. Cô đã sớm ý thức được mối thù, ý thức được trách nhiệm của thế hệ con cháu nối tiếp truyền thống gia đình, ghi thêm những trang mới vào cuốn sổ ghi công ấy.

Việt:

– Tính cách hiếu động: thích bắt ếch, bắn chim, câu cá, rảnh rỗi lúc nào nà cái ná thun trong tay lội cuối vườn ngoài bãi; lúc nào đi làm về cũng có một xâu chim trên cán cuốc.

– Tính cách hiếu thắng: đã giành với chị cái gì thì giành cho bằng được.

– Hôn nhiên vô tư: Tranh chị đi tòng quân thì cho mình đã lớn, nhưng chuyện trong gia đình, cái gì cũng phó mặc cho chị. Trong đêm, trước lúc lên đường, Chiến nằm trong buồng đang bàn tính với Việt thì Việt nằm ngoài vẫn ậm ừ một lúc đã ngáy khò khò.

– Tính cách trẻ con:

+ Đi bộ đội còn dắt thêm cái ná thun trong người.

+ Đi đánh giặc không sợ giặc, không sợ chết, chỉ sợ ma.

+ Muốn giữ kín chị không cho đồng đội biết vì sợ mất chị.

Câu 4:

Khuynh hướng sử thi là một khuynh hướng trong sáng tác nghệ thuật thiên về việc phản ánh những sự kiện có ý nghĩa lịch sử mang tính toàn dân. Tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” được viết bằng cảm hứng sử thi. Tuy chỉ tập trung vào hình ảnh những con người trong một gia đình những đó cũng là hình ảnh tiêu biểu cho đại gia đình đất nước. Chú Năm nói “Chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông”, dòng sông truyền thống của gia đình hòa cùng dòng chảy của lịch sử dân tộc: nhiều nỗi đau nhưng cuồn cuộn căm hờn, kết tinh thành sức mạnh tinh thần to lớn, vô tận, bất khuất trước kẻ thù. “Những đứa con trong gia đình” cách mạng. này đều hiện lên với kích cỡ của những người anh hùng với những suy nghĩ, câu nói, hành động đáng khâm phục.

Câu 5:

Đoạn văn cảm động nhất đó là cảnh hai chị em Việt và Chiến khiêng bàn thờ má chạy qua cánh đồng, gửi sang nhà chú Năm để hai chị em lên đường đi chiến đấu. Cảnh tượng đó khiến người đọc liên tưởng và bồi hồi xúc động bởi nhìn vào đó ta thấy được tình yêu, tình hiếu thảo, chọn nghĩa đối với cha mẹ. Dù khó khăn gian khổ hai chị em vẫn yêu thương nhau và không quên trách nhiệm nghĩa vụ trả thù cho ba má. Vẫn luôn nhớ về ba mẹ và làm theo, đi theo con đường ba mẹ đã đi, hết lòng vì tổ quốc.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *