Khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng tháng tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX – Ngữ văn 12

Soạn bài Khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX – Ngắn gọn nhất

Câu 1: Những nét chính về tình hình lịch sử, xã hội, văn hóa:

– Đường lối văn nghệ của Đảng Cộng sản, sự lãnh đạo của Đảng.

– Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mĩ kéo dài suốt 30 năm.

– Nền kinh tế còn nghèo nàn và chậm phát triển.

– Về văn hóa: điều kiện giao lưu bị hạn chế, nước ta chủ yếu tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của văn hóa các nước xã hội chủ nghĩa.

Câu 2:

Văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 có thể chia làm 3 chặng:

– Chặng đường từ 1945 – 1954.

– Chặng đường từ 1955 – 1964.

– Chặng đường từ 1965 – 1975.

* Chặng đường từ năm 1945 đến năm 1954:

– Một số tác phẩm trong những năm 1945-1946 đã phản ánh được không khí hồ hởi, vui sướng của nhân dân ta khi đất nước vừa giành được độc lâp.

– Từ cuối năm 1946, văn học tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

– Truyện ngắn và kí: Đôi mắt và nhật kí Ở rừng của Nam Cao, Làng của Kim Lân,…

– Thơ ca đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Tiêu biểu là những tác phẩm: Cảnh khuya, Cảnh rừng Việt Bắc, Rằm tháng giêng của Hồ Chí Minh; Bên kia sống Đuống của Hoàng Cầm, Tây Tiến của Quang Dũng, đặc biệt là tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu,…

– Một số vở kịch gây được sự chú ý như Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng…

* Chặng đường từ năm 1955 đến năm 1964

– Văn xuôi mở rộng đề tài, bao quát được khá nhiều vấn đề.

+ Một số tác phẩm khai thác đề tài kháng chiến chống Pháp: Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai…

+ Một số tác phẩm khai thác đề tài hiện thực đời sống trước Cách mạng tháng Tám: Tranh tối tranh sáng của Nguyễn Công Hoan, Mười năm của Tô Hoài,

+ Viết về đề tài công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội: Sông Đà của Nguyễn Tuân, Mùa lạc của Nguyễn Khải…

– Thơ ca phát triển mạnh mẽ với các tập thơ: Gió lộng của Tố Hữu, Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên…

– Kịch nói ở giai đoạn này cũng phát triển. Tiêu biểu là các vở Một đảng viên của Học Phi, Ngọn lửa của Nguyễn Vũ….

* Chặng đường từ năm 1965 đến năm 1975

– Chủ đề bao trùm của văn học là đề cao tinh thần yêu nước, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

– Văn xuôi tập trung phản ánh cuộc sống chiến đấu và lao động, khắc họa hình ảnh con người Việt Nam anh dũng, kiên cường, bất khuất: Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng…

– Thơ những năm chống Mĩ cứu nước đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Thơ ca thể hiện rất rõ khuynh hướng mở rộng và đào sâu chất liệu hiện thực; đồng thời tăng cường sức khái quát, chất suy tưởng, chính luận. Nhiều tập thơ có tiếng vang như: Ra trận, Máu và hoa của Tố Hữu, Hoa ngày thường – Chim báo bão và Những bài thơ đánh giặc của Chế Lan Viên, Đầu súng trăng treo của Chính Hữu…

– Kịch cũng có những thành tựu đáng ghi nhận. Các vở kịch gây được tiếng vang: Quê hương Việt Nam và Thời tiết ngày mai của Xuân Trình, Đại đội trưởng của tôi của Đào Hồng Cẩm,…

Câu 3: Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975:

– Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước.

– Nền văn học hướng về đại chúng.

– Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

Câu 4:

– Từ năm 1986, với công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản đề xướng và lãnh đạo, kinh tế nước ta từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, văn hóa nước ta có điều kiện tiếp xúc rộng rãi với nhiều nước trên thế giới. Văn học dịch, báo chí và các phương tiện truyền thông khác phát triển mạnh mẽ. Thúc đẩy nền văn học cũng phải đổi mới phù hợp với nguyện vọng của nhà văn và người đọc cũng như quy luật phát triển khách quan của nền văn học.

Câu 5: Những thành tựu ban đầu của văn học Việt Nam từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX:

– Thơ ca: có những tác phẩm ít nhiều tạo được sự chú ý của người đọc: Tự hát của Xuân Quỳnh, Ánh trăng của Nguyễn Duy…

– Văn xuôi: một số cây bút đã bộc lộ ý thức muốn đổi mới cách viết về chiến tranh, cách tiếp cận hiện thực đời sống như Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Thời xa vắng của Lê Lựu, những tuyển tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê của Nguyễn Minh Châu,…

– Từ năm 1986, văn học chính thức bước vào chặng đường đổi mới. Gắn bó hơn, cập nhật hơn những vấn đề của đời sống hằng ngày. Các tập truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp; tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Tường…

– Phóng sự xuất hiện, đề cập tới những vấn đề bức xúc của đời sống.

– Kch nói phát triển mạnh mẽ. Những vở kịch như: Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, Mùa hè ở biển của Xuân Trình,… là những vở tạo được sự chú ý.

Luyện tập:

Ý kiến của Nguyễn Đình Thi đề cập tới mối quan hệ giữa văn nghệ và kháng chiến. Một mặt, văn nghệ phụng sự kháng chiến – đó là mục đích của nền văn nghệ mới trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Mặt khác, chính hiện thực cách mạng và kháng chiến đã đem đến cho văn nghệ một sức sống mới, tạo nên nguồn cảm hứng sáng tạo mới cho văn nghệ.

Soạn bài Khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng tháng tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX – SGK Ngữ Văn lớp 12

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI

1. Nêu những nét chính về tình hình lịch sử, xã hội, văn hoá có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến 1975.

Trả lời:

a. Cách mạng tháng Tám năm 1945 vĩ đại đã mở ra một kỉ nguyên mới trên đất nước ta, khai sinh ra một nền văn học mới. Từ đây, nền văn học phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, thống nhất về khuynh hướng tư tưởng, tổ chức và quan niệm.

b. Đất nước trải qua nhiều sự kiện lớn:

– Công cuộc xây dựng cuộc sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc.

– Hai cuộc kháng chiến yêu nước vĩ đại: Kháng chiến chống thực dân Pháp, kháng chiến chống đế quốc Mĩ, tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc, trong đó có văn học nghệ thuật, đem đến cho văn nghệ sĩ chất liệu sống phong phú và cảm hứng nồng nàn để sáng tác các tác phẩm.

c. Hình thành kiểu nhà văn mới: nhà văn – chiến sĩ.

d. Hình thành những tư tưởng, tình cảm rất riêng.

2. Văn học Việt Nam 19-15 – 1975 chia làm mấy chặng đường? Gồm những giai đoạn nào? Nêu những thành tựu chủ yếu của mỗi chặng đường.

Trả lời:

Văn học Việt Xam 1945 – 1975 phát triển qua ba giai đoạn:

a. 1945 – 1954

–   Chủ đề bao trùm trong những ngày đầu đất nước vừa giành được độc lập (1845 – 1946) là ca ngợi Tổ Quốc và quần chúng cách mạng. Những tác phẩm tiêu biểu: Dân khí miền Trung (Hoài Thanh), Huế tháng Tám, bất tuyệt (Tố Hữu), Ngọn quốc kì, Hội nghị non sông (Xuân Diệu) Tình sông núi (Trần Mai Ninh)…

–   Sau năm 1946, văn học tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp: gắn bó sâu sắc với đời sống cách mạng và kháng chiến; hướng tới đại chúng, phản ánh sức mạnh của quần chúng nhân dân, thế hiện niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến.

–  Các thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, kịch, lí luận, nghiên cứu và phê bình văn học,… đều đạt được những thành tựu mới. Có thể kể tên một số tác phẩm tiêu biểu: (Đôi mắt (Nam Cao), Làng (Kim Lân), Vùng mỏ (Vò Huy Tâm), Xung kích (Nguyễn Đình Thi), Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), tập truyện Truyện Tây Bắc (Tô Hoài), tập thơ Việt Bắc (Tố Hữu), các bài thơ kháng chiến của Hồ Chí Minh: Cảnh khuya, Nguyên tiêu, Báo tiệp… Tây tiến (Quang Dũng), Đồng chí (Chính Hữu), Bản báo cáo Chủ nghĩa Mác –  và vấn đề văn hoá Việt Nam (Trường Chinh).

b. 1955 – 1964

–   Chúng ta vừa tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vừa đấu tranh thống nhất đất nước. Văn học tập trung thể hiện hình ảnh người lao động, ca ngợi những đổi thay của đất nước và con người mới trong bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội đồng thời thể hiện tình cảm sâu nặng với miền Nam ruột thịt, nói lên nỗi đau chia cắt và thể hiện ý chí thống nhất đất nước.

–  Văn học đạt được nhiều thành tựu trên cả ba thể loại:

+ Văn xuôi mở rộng đề tài, bao quát được khá nhiều vấn đề, nhiều phạm vi hiện thực đời sống.

+ Thơ phát triển mạnh mẽ với nhiều cảm hứng lớn từ đất nước, dân tộc trong sự hài hoà giữa cái riêng và cái chung và đã có nhiều thành tựu nổi bật.

+ Kịch đã có những tác phẩm được dư luận chú ý như: Một đảng viên (Học Phi), Ngọn lửa (Nguyễn Vũ), Quẫn (Lộng Chương), Chị Nhàn và Nổi gió (Đào Hồng Cẩm)…

c. 1965 – 1975

Toàn bộ nền văn học của cả hai miền Nam, Bắc tập trung vào cuộc chiến đấu chống Mĩ cứu nước với chủ đề bao trùm là ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

–  Ở tiền tuyến lớn miền Nam, những tác phẩm viết trong máu lửa của chiến tranh đã phản ánh nhanh nhạy và kịp thời cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam anh dũng. Văn học thành công với những tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Trần Hiếu Minh, Phan Tứ, thơ của Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Giang Nam, Thanh Hải…

–  Ở miền Bắc phải kể đến những tác phẩm truyện kí của Nguyễn Tuân, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Nguyên Khải, Nguyễn Minh Châu, Hữu Mai, Chu Văn… và nhiều tập thơ của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Chính Hữu… Các tác phẩm của các nhà thơ đã phản ánh chân thực, sinh động đời sống chiến trường, sự ác liệt, những hi sinh, tổn thất… trong chiến tranh. Đặc biệt, họ đã dựng nên bức chân dung tinh thần của cả một thế hệ trẻ chống Mĩ. Họ đă đem đến cho nền thơ Việt Nam một tiếng thơ mới mẻ, trẻ trung, sôi nổi.

–   Kịch chống Mĩ cũng có những thành tựu với nhiều tác phẩm đáng ghi nhận đã tạo được tiếng vang lúc bấy giờ như: Quê hương Việt Nam, Thời tiết ngày mai (Xuân Trình); Đại đội trưởng của tôi (Đào Hồng cẩm); Đôi mắt (Vũ Dung Minh)…

–   Nhiều công trình nghiên cứu, lí luận phê bình ra đời và có giá trị, tiêu biểu là những công trình của Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên…

d. Đánh giá những thành tựu chủ yếu của văn học giai đoạn 1945 – 1975

–  Dựng lên được hình tượng những con người mới trong lao động sản xuất và chiến đấu.

–  Ca ngợi công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà; ca ngợi sự đổi thay của đất nước và con người cùng tinh thần lạc quan, tin tưởng.

–  Ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; khơi dậy được tinh thần yêu nước của toàn dân.

–  Nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao biểu hiện sự tìm tòi cách thể hiện mới và cách tân, đánh dấu một bước tiến mới của nền thơ Việt Nam hiện đại: tập trung thể hiện cuộc ra quân của toàn dân tộc, khám phá sức mạnh của con người Việt Nam; khái quát tầm vóc dân tộc trong thời đại mới, tăng cường chất suy tư chính luận, tạo âm vang rộng lớn mang hơi thở thời đại.

–  Mang đến cho văn học tính chất trẻ trung, sôi nổi, lạc quan, yêu đời…

3. Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975.

Trả lời:

Có 3 đặc điếm cơ bản:

a. Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hoá, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước Đặc điểm này thể hiện trên các khía cạnh sau:

–  Đề tài phản ánh là hiện thực cách mạng

–  Nội dung tư tưởng là lí tưởng cách mạng

–  Hai đề tài mà văn học tập trung thể hiện là Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội.

–   Hình tượng chính được thể hiện là người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang, những lực lượng khác của dân quân, du kích, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến, giao liên….; cuộc sống mới, con người mới, mối quan hệ giữa những người lao động.

b. Nền văn học hướng về đại chúng

Đặc điểm này thể hiện trên các khía cạnh sau:

–   Nhà văn gắn bó với nhân dân lao động – những con người bình thường đang “làm ra đất nước” (Khác với văn học trước 1945).

–   Để có được thái độ ấy, đầu tiên nhà văn phải có nhận thức, nhãn quan đúng về nhân dân, có tình cảm tốt đẹp với nhân dân, nhận ra công lao to lớn của họ trong lao động sản xuất và sự nghiệp giải phóng dân tộc (Đôi mắt của Nam Cao, Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, hay câu nói tâm nguyện của Xuân Diệu: “Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi – Cùng đố mồ hôi cùng sôi giọt máu”…).

–   Nền văn học của ta mang tính nhân dân sâu sắc. Điều đó biểu hiện trong tính văn học như:

+ Lực lượng sáng tác: bổ sung những cây bút từ trong nhân dân.

+ Nội dung sáng tác: phản ánh đời sống nhân dân, tâm tư, khát vọng, nỗi bất hạnh của họ trong xã hội cũ, phát hiện khả năng và phẩm chất của người lao động, tập trung xây dựng hình tượng quần chúng cách mạng.

+ Nghệ thuật: giản dị, dễ hiểu, ngắn gọn, tìm đến những hình thức nghệ thuật quen thuộc với nhân dân, phát huy thể thơ dân tộc.

c. Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng Lãng mạn

–  Khuynh hướng sử thi: Cảm hứng sử thi là cảm hứng vươn tới những cái lớn lao, phi thường qua những hình ảnh tráng lệ:

+ Đề cập tới số phận chung của cả cộng đồng, liên quan đến giai cấp, đồng bào, Tổ quốc và thời đại.

+ Nhận vật chính thường tiêu biểu cho lí tưởng chung của dân tộc, gắn bó số phận mình với số phận đất nước, kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cộng đồng.

+ Cái đẹp ở mỗi cá nhân là ở ý thức công dân, lẽ sống lớn và tình cảm lớn. Nếu nói đến cái riêng thì cũng phải hoà với cái chung.

“Anh yêu em như yêu đất nước

Vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần’

(Nguyễn Đình Thi)

+ Lời văn mang giọng điệu ngợi ca, trang trọng và đẹp một cách tráng lệ:

“Ôi Việt Nam từ trong biển máu

Người vươn lên như một thiên thần”

(Tố Hữu)

+ Người cầm bút nhìn cuộc đời bằng “Con mắt Bạch Đằng – Con mắt Đống Đa”.

Nhân vật thường đại diện cho tinh hoa và khí phách, phẩm chất và ý chí của toàn dân tộc, có tính cách và tình cảm phi thường: “Còn một giọt máu tươi còn đập mãi” (Người con gái Việt Nam – Tố Hữu).

+ Một số tác phẩm mang đậm không khí núi rừng “Suốt đêm nghe cả rừng Xô man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng” (Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành).

–  Khuynh hướng lãng mạn:

+ Là khuynh hướng tràn đầy mơ ước, hướng tới tương lai thể hiện qua những câu thơ như: “Trán cháy rực nghĩ trời đất mới – Lòng ta bát ngát bình minh” (Nguyễn Đình Thi) hoặc “Từ trong đổ nát hôm nay – Ngày mai đã đến từng giây từng giờ” (Tố Hữu); hay hình tượng nhân vật như: Chị Sứ (Hòn đất – Anh Đức); Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng – Nguyễn Minh Châu).

+ Khẳng định lí tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp của con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

4. Căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá, hãy giải thích vì sao văn học Việt Nam từ 1975 đến hết thế kỉ XX phải đổi mới?

Trả lời:

–   Đất nước hết chiến tranh. Các vấn đề hậu chiến nảy sinh: nạn nhân chiến tranh, hoàn cảnh kinh tế chưa phục hồi.

–  Đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường: xã hội thay đổi quan điểm; góc nhìn đối với con người và nghệ thuật (cái nhìn của nhà văn không đơn giản, một chiều như trước mà đa diện hơn, linh hoạt, góc cạnh hơn…).

–  Tiếp xúc rộng rãi với văn hoá thế giới.

–  Nhu cầu của bạn đọc phóng phú và đa dạng hơn trước.

–  Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều đổi mới trong quan điểm chỉ đạo văn học nghệ thuật.

Đất nước bước vào công cuộc đổi mới thúc đẩy nền văn hoá cũng phải đổi mới phù hợp với nguyện vọng của nhà văn và người đọc cũng như quy luật phát triển khách quan của nền văn học.

5. Nêu quá trình phát triển và thành tựu chủ yếu của văn học Việt Nam từ 1975 đến cuối thế kỉ XX.

Trả lời:

–  Từ năm 1975 đến năm 1985 là chặng đường chuyển tiếp, trăn trở, tìm kiếm con đường đổi mới. Từ năm 1986 trở đi là chặng đường văn học có nhiều đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc và khá toàn diện. Biểu hiện:

+ Đề tài văn học chuyển sang hướng nội: Bộc lộ tiếng lòng và những trắc ẩn

+ Nở rộ trường ca với mục đích tổng kết, khái quát về chiến tranh.

+ Chất nhân bản, nhân văn được đề cao hơn, đi sâu vào những nỗi đau và bất hạnh của từng thân phận con người sau chiến tranh.

–  Các tác giả tiêu biểu cho khuynh hướng đổi mới: Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Trầu Mạnh Hảo, Xuân Quỳnh, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Minh.

+ Một số tác phẩm văn xuôi tiêu biểu viết theo tinh thần đổi mới:

Đất trắng (Nguyện Trọng Oánh), Hai người trở lại trung đoàn (Thái Bá Lợi) Đứng trước biển, Cù lao chàm (Nguyễn Mạnh Tuấn), Cha và con … Gặp gỡ cuối năm (Nguyễn Khải), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Tướng về hưu (Nguyễn Hữu Thiệp), Bến trông chồng (Dương Hướng) Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Cát bụi chân ai (Hồi kí của Tô Hoài), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường).

LUYỆN TẬP

Trong bài Nhận đường, Nguyễn Đình Thi viết: “Văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới. Sắt lửa mặt trận đang đúc lên nền văn nghệ của chúng ta”. Hãy trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên.

Trả lời:

Bình luận ý kiến của Nguyễn Đình Thi, cần xem xét từ mối quan hệ giữa văn nghệ và kháng chiến (hiện thực cuộc sống) để thấy rõ bản chất và đặc trưng của nền văn nghệ mới của chúng ta từ Cách mạng tháng Tám 1945 – 1975. Có thể trình bày những ý sau:

a. “Văn nghệ phụng sự kháng chiến”: Đây là quan điểm văn nghệ của Đảng ta, các văn nghệ sĩ tự nguyện đem ngòi bút của mình phục vụ sự nghiệp kháng chiến của toàn dân tộc.

b. “Nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới”: Ý nói đến mối quan hệ giữa hiện thực cuộc kháng chiến đối với văn nghệ. Hiện thực luôn là nguồn sữa mẹ bất tận nuôi sống văn học nghệ thuật, đem đến cho văn nghệ những chất liệu sống phong phú, những cảm hứng nồng nàn để tạo ra tác phẩm. Chính cuộc kháng chiến đã đem đến cho văn nghệ một sức sống mới trẻ trung, khoẻ khoắn để văn nghệ có thể phụng sự kháng chiến tốt hơn. Nội dung này đã được hình tượng hoá và nhấn mạnh bằng vế sau: “Sắt lửa mặt trận đang đúc lên nên văn nghệ mới của chúng ta”.

So sánh với văn học trước cách mạng ta thấy, văn học kháng chiến đã có một “sức sống mới”, vì được hun đúc từ hiện thực kháng chiến. Văn học giai đoạn này không bất lực trước cách mạng như dòng văn học hiện thực phê phán trước cách mạng, cũng không thoát li, xa lạ với đời sống nhân dân như thơ ca và tiểu thuyết lãng mạn trước cách mạng. Chính kháng chiến đã tạo ra nền văn học mới của cách mạng.

c. Qua so sánh, có thể thấy được bản chất và đặc trưng của nền văn nghệ mới: nền văn nghệ của nhân dân, gắn bó mật thiết với vận mệnh của đất nước, từ cuộc cách mạng của nhân dân và đất nước mà lớn lên, để rồi phục vụ cuộc sống đó của nhân dân, của đất nước. Có thể nói văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận và nhà văn là chiến sĩ trên mặt trận ấy (Hồ Chí Minh).

d. Hai ý của câu nói trên có vẻ như mâu thuẫn nhưng lại thống nhất khiến luận điểm càng thêm sâu sắc.

Soạn bài Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX

1. Phân tích những thành tựu nổi bật của văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975.

Trả lời:

Những thành tựu nổi bật của văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975.

– Nói qua về hoàn cảnh đặc biệt của xã hội từ năm 1945 đến năm 1975 (cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài suốt ba mươi năm, công cuộc xây dựng cuộc sống mới, con người mới ở miền Bắc,… đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới đời sống vật chất, tinh thần của dân tộc ; điều kiện giao lưu văn hoá với nước ngoài bị hạn chế). Trong hoàn cảnh đó, văn học vẫn phát triển và đạt được những thành tựu to lớn.

– Về thành tựu nổi bật, nhấn mạnh mấy điểm chính sau đây :

+ Đã hoàn thành sứ mệnh cao cả của một nền văn học trong thời đại mới. Đó là nền văn học cách mạng chủ yếu hướng về đại chúng nhân dân, một nền văn học vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, thực hiện xuất sắc nhiệm vụ cổ vũ chiến đấu, giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.

+ Xây dựng được một đội ngũ nhà văn đông đảo thuộc nhiều thế hệ, đã được rèn luyện và thử thách trong cuộc sống chiến đấu vĩ đại của dân tộc.

+ Đã tiếp nối và phát huy những truyền thống tư tưởng lớn của văn học dân tộc: chủ nghĩa nhân đạo, đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng.

+ Phát triển mạnh mẽ và đồng bộ các thể loại văn học. Văn học giai đoạn này đạt được nhiều thành tựu về nghệ thuật ở nhiều thể loại, đặc sắc hơn cả là thơ trữ tình và truyện ngắn.

2. Phân tích từng đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975.

Trả lời:

Về đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến- năm 1975, có 3 đặc điểm cơ bản:

– Đặc điểm thứ nhất nói về khuynh hướng vận động chủ yếu của văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 : Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hoá, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước. Nền văn học mới được khai sinh, gắn bó với vận mệnh của nhà nước nhân dân còn non trẻ, lại trải qua ba mươi năm chiến tranh ác liệt, nên sớm được kiến tạo theo mô hình “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận” (Hồ Chí Minh) cùng với kiểu nhà văn mới : nhà văn – chiến sĩ. Khuynh hướng tư tưởng chủ đạo của nền văn học mới là tư tưởng cách mạng, văn học trước hết phải trở thành một thứ vũ khí phục vụ sự nghiệp cách mạng.

Gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước nên quá trình vận động, phát triển của nền văn học mới ăn nhịp với từng chặng đường lịch sử của dân tộc, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nước. Sáng tác văn học tập trung vào hai đề tài : Tổ quốc và Chủ nghĩa xã hội.

– Đặc điểm thứ hai nói về đối tượng phản ánh và phục vụ chủ yếu, đồng thời cũng là nguồn cung cấp lực lượng sáng tác cho văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 : Nền văn học hướng về đại chúng.

– Đặc điểm thứ ba nói về khuynh hướng thẩm mĩ của văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 : Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Đây là đặc điểm mà anh (chị) cần phải hiểu sâu và nắm chắc để vận dụng khi học những tác giả và tác phẩm văn học giai đoạn này. Cụ thể, cần nắm vững những khái niệm : khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn ; chỉ ra được những biểu hiện cụ thể của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đã đáp ứng được yêu cầu phản ánh hiện thực đời sống trong quá trình vận động và phát triển của cách mạng.

3. Bài tập trang 19, SGK.( Trong bài Nhận đường, Nguyễn Đình Thi viết: “Văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới. Sắt lửa mặt trận đang đúc nên văn nghệ mới của chúng ta”.)

Hãy bày tỏ suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến trên

Trả lời:

Khi bình luận ý kiến của Nguyễn Đình Thi về nền văn nghệ mới, cần phải hiểu những ý chính sau :

– Một mặt là “Văn nghệ phụng sự kháng chiến” (ở đây là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp). Điều này nói lên mục đích, lí tưởng nghệ thuật của nền văn nghệ mới từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.

– Mặt khác là “nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới”. Đây chính là sự khẳng định tác động to lớn, sâu sắc của kháng chiến đối với văn nghệ. Chính hiện thực đời sống cách mạng và kháng chiến đã đem đến cho văn nghệ (trong đó có văn học) một nguồn cảm hứng mới, một sức sống mới. Chính cuộc kháng chiến đã cung cấp cho văn nghệ những đề tài mới, những nhân vật mới, công chúng mới.

Nguyễn Đình Thi khẳng định với niềm tin mãnh liệt mối quan hệ máu thịt giữa văn nghệ với thời đại, với hiện thực đời sống của dân tộc.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *