Mâu thuẫn Đông-Tây và sự khởi đầu của chiến tranh lạnh
Từ liên minh chống phát xít, sau chiến tranh, hai cường quốc Liên Xô-Mĩ nhanh chóng chuyển sang thế đối đầu và đi tới tình trạng chiến tranh lạnh.
Trước hết, đó là sự đối lập về mục tiêu và chiến lược giữa hai cường quốc, Liên Xô chủ trương duy trì hòa bình, an ninh thế giới, bảo vệ những thành quả của chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh phong trào cách mạng thế giới. Ngược lại, Mĩ ra sức chống phá Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi phong trào cách mạng nhằm thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới. Mĩ hết sức lo ngại trước ảnh hưởng to lớn của Liên Xô cùng những thắng lợi của các cuộc cách mạng dân chủ nhân dân ở các nước Đông Âu, đặc biệt là sự thành công của cách mạng Trung Quốc với sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống thế giới, trải dài từ Đông Âu tới phía đông châu Á.
Nhưng cũng sau chiến tranh, Mĩ đã vươn lên thành một nước tư bản giàu mạnh nhất, vượt xa các nước tư bản khác, nắm độc quyền vũ khí nguyên tử. Mĩ tự cho mình có quyền lãnh đạo thế giới.
Sự kiện được xem là khởi đầu cho chính sách chống Liên Xô, gây nên cuộc Chiến tranh lạnh là thông điệp của Tổng thống Truman tại Quốc hội Mĩ ngày 12-2-1947. Trong đó, Tổng thống Mĩ khẳng định: sự tồn tại của Liên Xô là nguy cơ lớn đối với Mĩ và đề nghị viện trợ khẩn cấp 400 triệu USD cho hai nước Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kì.
“Học thuyết Truman” nhằm: 1. Củng cố các chính quyền phản động và đẩy lùi phong trào đấu tranh yêu nước ở Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kì; 2. Biến hai nước Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kì thành những căn cứ tiền phương chống Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu từ phía nam của các nước này.
Hai là, sự ra đời của “Kế hoạch Mácsan” (6-1947). Với khoản viện trọ khoảng 17 tỉ USD, Mĩ đã giúp các nước Tây Âu phục hồi nền kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh. Mặt khác, qua kế hoạch này, Mĩ còn nhằm tập hợp các nước Tây Âu vào liên minh quân sự chống Liên Xô và các nước Đông Âu.
Việc thực hiện “Kế hoạch Mácsan” đã tạo nên sự phân chia đối lập về kinh tế và chính trị giữa các nước Tây Âu tư bản chủ nghĩa và các nước Đông Âu xã hội chủ nghĩa.
Ba là, việc thành lập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO).
Ngày 4-4-1949, Tại Oasinhtơn, Mĩ và 11 nước phương Tây (Anh, Pháp), Canada ,Italia, Bỉ, Hà Lan, Lúcxămbua, Đan Mạch, Na Uy, Aixơlen, Bồ Đào Nha) đã kí Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương. Sau đó, thêm Hi Lạp, Thổ Nhĩ Kì (2-1952), Cộng hòa Liên bang Đức(5-1955), Tây Ban Nha (1982).(1)
Đây là liên minh quân sự lớn nhất của các nước tư bản phương Tây do Mĩ cầm đầu nhằm chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
Tháng 1-1949, Liên Xô và các nước Đông Âu thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế để hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Tháng 5-1955, Liên Xô và các nước Đông Âu (Anbani, Ba Lan, Hunggari, Bungari, Cộng hòa dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Rumani) đã thành lập Tổ chức hiệp ước Vácsana, một liên minh chính trị, quân sự mang tính chất phòng thủ của các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu.
Sự ra đời của NATO và Tổ chức hiệp ước Vácsana đã đánh dấu sự xác lập của cục diện hai cực, hai phe. Chiến tranh lạnh đã bao trùm cả thế giới.
Sự đối đầu Đông-Tây và các cuộc chiến tranh cục bộ
Chiến tranh lạnh là cuộc đối đầu căng thẳng giữa hai phe tư bản chủ nghĩa do Mĩ đứng đầu và phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô làm trụ cột. Chiến tranh lạnh đã diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực, từ chính trị, quân sự đến kinh tế, văn hóa-tư tưởng v.v. ngoại trừ sự xung đột trực tiếp bằng quân sự giữa hai siêu cường. Tuy không nổ ra một cuộc chiến tranh thế giới, nhưng trong gần nửa thế kỉ của Chiến tranh lạnh, thế giới luôn trong tình trạng căng thẳng. Các cuộc chiến tranh cục bộ đã diễn ra ở nhiều khu vực như Đông Nam Á, Triều Tiên, Trung Đông….
1.Cuộc chiến tranh chống xâm lược Đông Dương của thực dân Pháp (1945-1954)
Ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thực dân Pháp quay trở lại tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược ba nước Việt Nam, Campuchia, Lào. Cuộc chiến bùng nổ từ Sài Gòn tháng 9-1945, đến cuối tháng 12-1946 lan rộng trên toàn Đông Dương.
Vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, nhân dân ba nước Đông Dương đã kiên cường kháng chiến. Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công (10-1949), cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam mới có điều kiện liên lạc và nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa. Từ sau năm 1950, Mĩ ngày càng can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến tranh của thực dân Pháp ở Đông Dương. Từ đó, chiến tranh Đông Dương ngày càng chịu sự tác động của hai phe.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hội nghị Giơnevơ được triệu tập để bàn về việc chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Hiệp định Giơnevơ (7-1954) đã công nhận độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; Lào và Campuchia. Cuộc chiến tranh ở Đông Dương đã chấm dứt, nhưng nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền, vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời. Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương là một thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia, nhưng mặt khác cũng phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai phe. Đại biểu Mĩ ra tuyên bố không chịu sự ràng buộc của Hiệp định nhằm chuẩn bị cho sự xâm lược sau này.
2. Cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953)
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, bán đảo Triều Tiên được công nhận là một quốc gia độc lập có chủ quyền , nhưng tạm thời để quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Bắc, quân đội Mĩ chiếm đóng miền Nam, lấy vĩ tuyến 38 làm giới tuyến. Năm 1948, ở hai miền Nam và Bắc, hai chính quyền được thành lập riêng rẽ là Đại Hàn Dân quốc (8-1948) và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (9-1948).
Sau đó, quân đội Liên Xô và Mĩ rút khỏi Triều Tiên. Như vậy, giới tuyến quân sự tạm thời ở vĩ tuyến 38 đã trở thành đường ranh giới giữa hai nhà nước với chế độ chính trị khác nhau, do Mĩ và Liên Xô bảo trợ cho mỗi bên,
Sau hơn 3 năm chiến tranh diễn ra khốc liệt giữa miền bắc được Trung Quốc chi viện và miền Nam có Mĩ giúp sức, ngày 27-7-1953, Hiệp định đình chiến được kí kết. Theo đó, vĩ tuyến 38 vẫn là ranh giới quân sự giữa hai miền. Cuộc chiến tranh Triều Tiên là một “sản phẩm” của Chiến tranh lạnh và là sự đụng đầu trực tiếp đầu tiên giữa hai phe.
3. Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mĩ (1954-1975)
Sau hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương, Mĩ đã nhanh chóng thay thế Pháp, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ. Nhưng mưu đồ của Mĩ đã vấp phải ý chí quật cường và cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam.

Chiến tranh Việt Nam đã trở thành cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất phản ánh mâu thuẫn giữa hai phe. Nhưng cuối cùng, mọi chiến lược chiến tranh của Mĩ đều bị phá sản. Tháng 1-1973, Hiệp định Pari được kí kết. Theo đó, Mĩ cam kết tôn trọng quyền dân tộc cơ bản, tôn trọng độc lập, thống nhất, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và rút quân khỏi Việt Nam, cam kết không dính líu về quân sự hoặc can thiệp về chính trị đối với Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam đoàn kết với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, tiến hành cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, đến năm 1975 đã giành được thắng lợi hoàn toàn.
Tóm lại, trong thời kì Chiến tranh lạnh, hầu như mọi cuộc chiến tranh hoặc xung đột quân sự ở các khu vực trên thế giới, với những hình thức và mức độ khác nhau, đều liên quan tới sự “đối đầu” giữa hai cực Xô-Mĩ.
Thế giới sau chiến tranh lạnh
Sau nhiều năm trì trệ và khủng hoảng kéo dài, đến những năm 1989-1991, chế độ xã hội chủ nghĩa tan rã ở các nước Đông Âu và Liên bang Xô viết. Ngày 28-6-1991. Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) tuyên bố giải thể; ngày 1-7-1991, Tổ chức Hiệp ước Vácsava cũng ngừng hoạt động. Với “cực” Liên Xô tan rã, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới không còn tồn tại và trật tự thế giới hai cực Ianta sụp đổ. Thế “hai cực” của hai siêu cường không còn nữa và Mĩ là “cực” duy nhất còn lại.
Từ sau năm 1991, tình hình thế giới diễn ra những thay đổ to lớn và phức tạp, phát triển theo các xu thế chính sau đây:
Một là, trật tự thế giới “hai cực” đã sụp đổ, nhưng trật tự thế giới mới mang lại đang trong quá trình hình thành theo xu hướng “đa cực”, với sự vươn lên của các cường quốc như Mĩ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Liên bang Nga, Trung Quốc.
Hai là, sau Chiến tranh lạnh, hầu như các quốc gia đều điều chỉnh chiến lược phát triển, tập trung vào phát triển kinh tế để xây dựng sức mạnh thực sự của mỗi quốc gia.
Ba là, sự tan rã của Liên Xô đã tạo ra cho Mĩ một lợi thế tạm thời, giới cầm quyền Mĩ ra sức thiết lập trật tự thế giới “một cực” để Mĩ làm bá chủ thế giới. Nhưng trong tương quan lực lượng giữa các cường quốc, Mĩ không dễ gì có thể thực hiện được tham vọng đó.
Bốn là, sau Chiến tranh lạnh, hào bình thế giới được củng cố, nhưng ở nhiều khu vực tình hình lại không ổn định với những cuộc nội chiến, xung đột quân sự đẫm máu kéo dài như ở bán đảo Bancăng, ở một số nước châu Phi và Trung Á.
Bước sang thế kỉ XXI, với sự tiến triển của xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển, các dân tộc hi vọng về một tương lai tốt đẹp của loài người. Nhưng cuộc tấn công khủng bổ bất ngờ vào nước Mĩ ngày 11-9-2001 đã làm cả thế giới kinh hoàng.
Chỉ trong một thời gian ngắn, Trung tâm Thương mại Thế giới bị sụp đổ, hàng nghìn dân thường thiệt mạng, tổn thất về vật chất lên đến hàng chục tỉ USD.
Sự kiện ngày 11-9 đặt các quốc gia-dân tộc đứng trước những thách thức của chủ nghĩa khủng bố với những nguy cơ khó lường. Nó đã gây ra những tác động to lớn, phức tạp đối với tình hình chính trị thế giới và cả trong quan hệ quốc tế. Ngày nay, các quốc gia-dân tộc vừa có những thời cơ phát triển thuận lợi, vừa phải đối mặt với những thách thức vô cùng gay gắt.
Xu thế hòa hoãn Đông Tây và chiến tranh lạnh chấm dứt
Từ đầu những năm 70 của thế kỉ XX, xu hướng hòa hoãn Đông-Tây đã xuất hiện với những cuộc gặp gỡ thương lượng Xô-Mĩ, mặc dù còn những diễn biến phức tạp.
Trên cơ sở những thỏa thuận Xô-Mĩ, ngày 9-11-1972, hai nước Cộng hòa Dân chủ Đức và Cộng hòa Liên bang Đức đã kí kết tại Bon Hiệp định về những cơ sở của quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức.
Theo đó, hai bên tôn trọng không điều kiện chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nước châu Âu trê đường biên giới hiện tại.
Hai bên thiết lập quan hệ láng giềng thân thiện trên cơ sở bình đẳng và giải quyết các vấn đề tranh chấp hoàn toàn bằng biện pháp hòa bình. Nhờ đó, tình hình căng thẳng ở châu Âu giảm đi rõ rệt.
Cũng trong năm 1972, hai siêu cường Liên Xô và MĨ đã thỏa thuận việc hạn chế vũ khí chiến lược và kí Hiệp ước về việc hạn chế hệ thống phòng chống tên lửa (ABM) ngày 26-5, sau đó là Hiệp định hạn chế vũ khí tiến công chiến lược (1)
(gọi tắt là SALT-1).
Đầu tháng 8-1975, 33 nước châu Âu cùng với Mĩ và Canada kí kết Định ước Henxinki. Định ước tuyên bố: khẳng định những nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia (như bình đẳng, chủ quyền, sự bền vững của đường biên giới, giải quyết bằng biện pháp hòa bình các cuộc tranh chấp…nhằm bảo đảm an ninh châu Âu) và sự hợp tác giữa các nước (về kinh tế, khoa học-kĩ thuật, bảo vệ môi trường v.v ..). Định ước Henxinki (1975) đã tạo nên một cơ chế giải quyết các vấn đề liên quan đến hòa bình, an ninh ở châu lục này.

Cùng với việc sự kiện trên, từ đầu những năm 70, hai siêu cường Xô-Mĩ đã tiến hành những cuộc gặp cấp cao, nhất là từ khi M. Goocbachốp lên cầm quyền ở Liên Xô năm 1985. Nhiều văn kiện hợp tác về kinh tế và khoa học-kĩ thuật đã được kí kết giữa hai nước, nhưng trọng tâm là những thỏa thuận về việc thủ tiêu các tên lửa tầm trung ở châu Âu, cắt giả vũ khí chiến lược cũng như hạn chế cuộc chạy đua vũ trang giữa hai nước.
Tháng 12-1989, trong cuộc gặp không chính thức tại đảo Manta (Địa Trung Hải), hai nhà lãnh đạo M. Goocbachốp và GBusơ (cha) đã chính thức cùng tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh.
Sở dĩ hai siêu cường Xô-Mĩ tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh vì: một là, cuộc chạy đua vũ trang kéo dài hơn bốn thập niên đã làm cho cả hai nước quá tốn kém và suy giảm “thế mạnh” của họ trên nhiều mặt so với các quốc gia khác; hai là, nhiều khó khăn và thách thức to lớn đã đặt ra trước hai nước do sự vươn lên mạnh mẽ của Nhật Bản và các nước Tây Âu v.v.. Còn nền kinh tế Liên Xô lúc này ngày càng lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Hai cường quốc Xô-Mĩ đều cần phải thoát khỏi thế “đối đầu” để ổn định và củng cố vị thế của mình.
Chiế tranh lạnh chấm dứt đã mở ra chiều hướng và những điều kiện để giải quyết hòa bình các vụ tranh chấp, xung đột đang diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới như Ápganixtan, Campuchia, Namibia v.v..
Hãy nêu và phân tích những sự kiện dẫn tới tình trạng chiến tranh lạnh giữa hai phe- TBCN và XHCN
Những sự kiện dẫn tới tình trạng chiến tranh lạnh giữa hai phe- TBCN và XHCN:
Một là, sự đối lập về mục tiêu và chiến lược giữa hai cường quốc Liên Xô và Mĩ chủ trương duy trì hòa bình, ủng hộ các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc, hòa bình dân chủ. Trái lại, Mĩ ra sức ủng hộ các lực lượng phản động, Mĩ ra sức ủng hộ các lực lượng phản động, chống giai cấp công nhân, nhân dân lao động các nước, chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược nhằm chống phá các nước xã hội chủ nghĩa.
Hai là- Chủ nghĩa xã hội từ một nước trở thành hệ thống thế giới, đặc biệt là sự ra đời của nước CHND Trung Hoa. Hệ thống XHCN với không gian địa lí trải dài từ châu Âu qua châu Á tới Mĩ Latinh cùng với lực lượng hung mạnh của mình đã trở thành một đối trọng lớn đối với Mĩ và các nước phương Tây hầu như trong suốt nửa sau thế kỉ XX.
Ba là- Mĩ và các nước phương Tây đã thi hành một chính sách thù địch, gay căng thẳng đối với Liên Xô và các nước XHCN, từng bước đi tới tình trạng chiến tranh lạnh đối đầu gay gắt.
Từ ba cuộc chiến tranh đã nêu trong bài, em có nhận xét gì về chính sách đối ngoại của Mĩ ?
Từ ba cuộc chiến tranh, nhận xét về chính sách đối ngoại của Mĩ:
Trong thời kì chiến tranh lạnh, hầu như mọi cuộc chiến tranh hoặc xung đột quân sự ở các khu vực trên thế giới, với những hình thức và mức độ khác nhau, đều liên quan đến sự đối đầu giữa hai cực Xô-Mĩ.
Cả ba cuộc chiến tranh nêu trong bài đều phản ánh tình trạng chiến tranh lạnh, nhằm triển khai “chiến lước toàn cầu” thực hiện tham vọng làm bá chủ thế giới của nước Mĩ với mục tiêu chủ yếu như: ngăn chặn, đẩy lùi, tiêu diệt hoàn toàn các nước xã hội chủ nghĩa, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân, phong trào hòa bình dân chủ, tiến bộ thế giới,…
Hãy nêu và phân tích những sự kiện chứng tỏ xu hướng hòa hoãn giữa hai phe-TBCN và XHCN
Những sự kiện chứng tỏ xu hướng hòa hoãn giữa hai phe-TBCN và XHCN:
Mâu thuẫn Đông-Tây và Cuộc chiến tranh lạnh đã gây hậu quả nặng nề cho cả Mĩ và Liên Xô, cho cả hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Không thể kéo dài mãi tình trạng đó. Từ đầu thập kỉ 70, trong quan hệ quốc tế đã xuất hiện xu thế hòa hoãn, chuyển từ căng thẳng đối đầu sang hòa dịu đối thoại.
-Trước hết là quan hệ giữa hai nước Đức. Ngày 9-11-1972, CHDC Đức và CHLB Đức đã kí kết hiệp ước công nhận lẫn nhau, thừa nhận đường biên giới sau chiến tranh, thiết lập quan hệ láng giền thân thiện.
-Cũng trong năm 1972, hai siêu cường Liên Xô và Mĩ đã kí Hiệp ước về việc hạn chế hệ thống phòng chống tên lửa (ABM), sau đó là Hiệp định hạn chế vũ khí tiến công chiến lược (gọi tắt là SALT-1), đưa tới sự cân bằng Xô-Mĩ về lực lượng quân sự nói chung và vũ khí hạt nhân nói riêng.
-Trải qua cuộc đàm phán nhiều ngày, tháng 8-1975, 33 nước ở châu Âu (cả Đông và Tây Âu) cùng Mĩ và Canada đã kí kết Định ước Henxinki về an ninh, hợp tác châu Âu. Tình hình châu Âu giảm bớt căng thẳng rõ rệt.
-Từ nửa sau những năm 80, hai nước Xô-Mĩ đã tăng cường các cuộc tiếp xúc cấp cao (M. Goocbachốp-Rigân, M. Goocbachốp- Busơ (cha)), kí kết các hiệp ước về kinh tế, khoa học-kĩ thuật, đặc biệt là Hiệp ước thủ tiêu tên lửa tầm trung (1987), cắt giảm vũ khí chiến lược (1991).
-Cuối tháng 12-1989, tại cuộc gặp cấp cao không chính thức trên đảo Manta, hai nước Xô-Mĩ tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh kéo dài hơn 40 năm.
Sở dĩ hai siêu cường Xô-Mĩ tuyên bố chấm dứt chiến tranh lạnh vì:
– Cuộc chạy đua vũ trang kéo dài hơn bốn thập niên đã làm cho cả hai nước quá tốn kém và suy giảm “thế mạnh” của họ trên nhiều mặt so với các quốc gia khác.
– Sự vươn lên mạnh mẽ của Đức, Nhật Bản và Tây Âu … đã gây ra nhiều khó khăn và thách thức to lớn. Các nước này đã trở thành những đối thủ cạnh tranh đáng gờm đối với Mĩ. Còn Liên Xô lúc này ngày càng lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Do vậy hai cường quốc Xô-Mĩ đều cần phải thoát khỏi thế “đối đầu” để ổn định và củng cố vị thế của mình.
Chiến tranh lạnh chấm dứt đã mở ra chiều hướng và những điều kiện để giải quyết hòa bình các vụ tranh chấp, xung đột đang diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới.
Hãy nêu những biển đổi chính tình hình thế giới sau khi Chiến tranh lạnh chấm dứt
Những biển đổi chính tình hình thế giới sau khi Chiến tranh lạnh chấm dứt:
Sau nhiều năm trì trệ và khủng hoảng kéo dài, đến những năm 1989-1991, chế độ xã hội chủ nghĩa tan rã ở các nước Đông Âu và Liên bang Xô viết. Ngày 28-6-1991. Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) tuyên bố giải thể; ngày 1-7-1991, Tổ chức Hiệp ước Vácsava cũng ngừng hoạt động. Với “cực” Liên Xô tan rã, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới không còn tồn tại và trật tự thế giới hai cực Ianta sụp đổ. Thế “hai cực” của hai siêu cường không còn nữa, Mĩ là “cực” duy nhất còn lại.
Phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô ở châu Âu và châu Á đã bị mất, ảnh hưởng của Mĩ cũng bị thu hẹp ở nhiều nơi.
Trong khí đó, khối NATO vẫn tiếp tục duy trì, có ý đó mở rộng sang phía đông châu Âu.
Sự hợp tác Xô-Mĩ cũng dẫn đến xu thế đối thoại, hợp tác nhằm giải quyết từng bước các vụ tranh chấp hoặc xung đột khu vực như : vấn đề Apacthai, vấn đề Campuchia, vấn đề hòa bình và ổn định ở Trung Đông…
Bài tập 1 trang 38, 39 Sách bài tập (SBT) Lịch sử 12
Hãy khoanh tròn chữ cái trước ý đúng.
1. Sự kiện khởi đầu gây nên cuộc Chiến tranh lạnh là
A. sự ra đời “Học thuyết Truman”.
B. sự ra đời “Kế hoạch Mácsan”.
C. sự ra đời của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO).
D. sự ra đời của Tổ chức Hiệp ước Vácsava.
2. Nguyên nhân dẫn đến sự đối đầu Xô- Mĩ là
A. Mĩ nắm độc quyền về vũ khí nguyên tử.
B. hai nước đối lập nhau về mục tiêu và chiến lưọc
C. Liên Xô làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của Mĩ
D. hai nước đều muốn độc quyền lãnh đạo thế giới.
3. Tổ chức Hiệp ước Vácsava là
A. tổ chức hợp tác kinh tế của các nước )XHCN ở châu Âu.
B. tổ chức liên minh phòng thủ về quân sự của các nước XHCN ở châu Âu
C. tổ chức liên minh chính trị của các nước XHCN ở cháu Âu.
D. tổ chức liên minh về chính.trị và quản sự của các nước XHCN ở châu Âu.
4. Chiến tranh Triều Tiên diễn ra trong những năm
A. 1949- 1953. C. 1951 – 1954.
B. 1950- 1953. D. 1950- 1954.
5. Vĩ tuyến 17 trở thành giới tuyến quân sự tạm thời chia cắt hai miền Nam – Bắc Việt Nam được đưa ra tại
A. Hội nghị lanta.
B. Hội nghị Pốtxđam.
C. Hội nghị Mátxcơva.
D. Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương.
6. Xu thế hoà bình và hợp tác bắt đầu vào khoảng thời gian
A. nửa đầu nhũng năm 70 của thế kỉ XX.
B. nửa đầu những năm 80 của thế kỉ XX.
C. nửa sau những năm 80 của thế kỉ XX
D. thập kỉ 90 của thế kỉ XX.
7. Ý không phản ánh đúng hậu quả của Chiến tranh lạnh là
A. thế giới luôn ở trong tình trạng căng thẳng, có lúc đứng trước nguy cơ bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới mới.
B. mối quan hệ đóng minh chống phát xít bị phá vỡ, thay vào đó là tình trạng đối đầu giữa hai cường quốc Xô – Mĩ.
C. các nước phải chi phí một khối lượng khổng lổ vế tiến của và sức người để chạy đua vũ trang.
D. chủ nghĩa khủng bố xuất hiện, đe doạ an ninh của các quốc gia.
8. Hai vị nguyên thủ đã cùng tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh là
A. Brêgiơnhép và Catơ. C. Brègiơnhép và Rigân.
B. Goócbachốp và Rigân. D. Goócbachốp và Busơ (cha).
Trả lời:
1.Chọn đáp án A
2.Chọn đáp án B
3.Chọn đáp án D
4.Chọn đáp án B
5.Chọn đáp án D
6.Chọn đáp án A
7.Chọn đáp án D
8.Chọn đáp án D
Bài tập 2 trang 39 Sách bài tập (SBT) Lịch sử 12
Hãy điền chữ Đ vào ô □ trước câu đúng hoặc chữ S vào ô □ trước câu sai.
1. Tổng thống Mĩ Truman đế nghị viện trợ khẩn cấp 400 triệu USD cho Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kì để biến hai nước này thành căn cứ tiền phương chống lại Liên Xô và các nước Đông Âu.
2. Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương được thành lập tháng 5 – 1955.
3. Tháng 12 – 1989, hai cường quốc Mĩ – Xô tuyến bố chấm dứt tình trạng chiến tranh lạnh.
Trả lời:
1. Đ: Tổng thống Mĩ Truman đế nghị viện trợ khẩn cấp 400 triệu USD cho Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kì để biến hai nước này thành căn cứ tiền phương chống lại Liên Xô và các nước Đông Âu.
2. S: Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương được thành lập tháng 5 – 1955.
3. Đ: Tháng 12 – 1989, hai cường quốc Mĩ – Xô tuyến bố chấm dứt tình trạng chiến tranh lạnh.
Bài tập 3 trang 39, 40 Sách bài tập (SBT) Lịch sử 12
Hãy ghép thời gian với nội dung sự kiện lịch sử trong bảng dưới đây cho phù hợp.
Thời gian | Nội dung sự kiện lịch sử |
1. Ngày 9-11 -1972,
2. Tháng 8- 1975, 3.Năm 1985, 4.Năm 1989, 5.Ngày 28-6- 1991, 6.Ngày 1-7-1991, |
a) Định ước Henxinki đuợc kí kết.
b) Mĩ và Liên Xô tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh. c) Hội đồng tương trợ kinh tế tuyên bố giải thể. d) Tổ chức Hiệp ước Vácsava chấm dứt hoạt động. e)Hiệp định về những cơ sở của quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức. |
Trả lời:
1-e
2-a
3-
4-b
5-c
6-d
Hãy ghép thời gian với nội dung sự kiện lịch sử trong bảng dưới đây cho phù hợp.
Thời gian | Nội dung sự kiện lịch sử |
1. Ngày 9-11 -1972,
2. Tháng 8- 1975, 3.Năm 1985, 4.Năm 1989, 5.Ngày 28-6- 1991, 6.Ngày 1-7-1991, |
a) Định ước Henxinki đuợc kí kết.
b) Mĩ và Liên Xô tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh. c) Hội đồng tương trợ kinh tế tuyên bố giải thể. d) Tổ chức Hiệp ước Vácsava chấm dứt hoạt động. e) Hiệp định về những cơ sở của quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức. |
Chọn đáp án
1-e
2-a
3-
4-b
5-c
6-d
Bài tập 4 trang 40 Sách bài tập (SBT) Lịch sử 12
Mục tiêu của Mĩ trong việc tiến hành Chiến tranh lạnh là gì ? Vì sao Liên Xô và Mĩ chấm dứt Chiến tranh lạnh ?
Trả lời:
Mục tiêu của Mĩ trong việc tiến hành Chiến tranh lạnh là:
+ Chống phá Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa, chống phong trào cách mạng, mưu đồ làm bá chủ thế giới.
+ Lo ngại trước ảnh hưởng to lớn của Liên Xô và Đông Âu, sự thắng lợi của CHND Trung Quốc, CNXH đã trở thành hệ thống thế giới từ Động Âu sang Đông Á.
+ Sau CTTG II, là nước tư bản giàu mạnh nhất, nắm độc quyền vũ khí nguyên tử, tự cho mình có quyền lãnh đạo thế giới.
Liên Xô và Mĩ chấm dứt Chiến tranh lạnh vì:
– Cuộc “Chiến tranh lạnh” kéo dài hơn bốn thập kỉ đã làm cho hai nước tốn kém và bị suy giảm thế mạnh trên nhiều mặt so với các cường quốc khác, đang đứng trước thách thức của sự phát triển thế giới.
– Sự vươn lên mạnh mẽ của Nhật Bản và Tây Âu… Các nước nước này đã trở thành những đối thủ đáng gờm đối với Mĩ. Còn Liên Xô lúc này nền kinh tế ngày càng lâm vào tình trạng trì tệ, khủng hoảng.
– Cuộc khoa học – kĩ thuật và sự giao lưu quốc tế về kinh tế, thương mại, văn hoá ngày càng phát triển rộng rãi. Cuộc “chiến tranh kinh tế” mang tính toàn cầu đòi hỏi phải có cục diện ổn định, đối thoại, hợp tác cùng phát triển.
-> Do vậy, hai siêu cường Liên Xô và Mĩ đều cần phải thoát khỏi thế đối đầu để ổn định và củng cố vị thế của mình.
Bài tập 5 trang 40, 41 Sách bài tập (SBT) Lịch sử 12
Chiến tranh lạnh đã dẫn đến những hậu quả gì ?
Trả lời:
– Chiến tranh lạnh đã gây ra những hậu quả hết sức nặng nề :
+ Thế giới luôn ở trong tình trạng căng thẳng, có lúc đứng trước nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới mới.
+ Các cường quốc đó chi một khối lượng khổng lồ tiền của và sức người để sản xuất các loại vũ khí huỷ diệt, xây dựng hàng ngàn căn cứ quân sự, trong khi nhân loại vẫn phải chịu bao khó khăn do đói nghèo, dịch bệnh, thiên tai…
+ Loài người phải chịu khó khăn do nghèo đói, ô nhiễm môi trường, bệnh tật gây ra…
Bài tập 6 trang 41 Sách bài tập (SBT) Lịch sử 12
Từ năm 1991, xu thế phát triển của thế giới diễn ra như thế nào
Trả lời:
– Từ 1989 – 1991, chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu tan rã.
– Ngày 28/6/1991, khối SEV giải thể
– 01/07/1991, Tổ chức Varsava chấm dứt hoạt động.
– Trật tự “hai cực” Yalta sụp đổ, phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô ở châu Âu và châu Á mất đi, ảnh hưởng của Mỹ cũng bị thu hẹp ở nhiều nơi.
– Từ 1991, tình hình thế giới có nhiều thay đổi to lớn và phức tạp:
+ Trật tự hai cực I-an-ta sụp đổ.Một trật tự thế giới đang dần dần hình thành theo xu hướng đa cực.
+ Các quốc gia tập trung phát triển kinh tế
+ Mỹ đang ra sức thiết lập một trật tự thế giới “đơn cực” để làm bá chủ thế giới,nhưng không thực hiện được.
+ Sau “chiến tranh lạnh”, nhiều khu vực thế giới không ổn định, nội chiến, xung đột quân sự kéo dài (Ban-căng, châu Phi, Trung Á).
– Sang thế kỷ XXI, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển đang diễn ra thì vụ khủng bố 11.09.2001 ở nước Mỹ đã đặt các quốc gia, dân tộc đứng trước những thách thức của chủ nghĩa khủng bố với những nguy cơ khó lường, gây ra những tác động to lớn, phức tạp với tình hình chính trị thế giới và trong quan hệ quốc tế.
– Ngày nay, các quốc gia dân tộc vừa có những thời cơ phát triển thuận lợi, đồng thời vừa phải đối mặt với những thách thức vô cùng gay gắt.
- Viết đoạn văn nghị luận xã hội 200 từ : Đừng sống theo điều ta ước muốn, hãy sống theo điều ta có thể
- Đề đọc hiểu+ Nghị luận xã hội: bệnh ái kỷ( tự yêu bản thân) của giới trẻ hiện nay
- Lực điện từ, Cách xác định chiều của lực điện từ tác dụng lên dây dẫn theo Quy tắc bàn tay trái – Vật lý 9 bài 27
- Rèn luyện kĩ năng mở bài,kết bài trong bài văn nghị luận – Ngữ văn 12
- Nghị luận xã hội về lòng nhân hậu