Nhật Bản từ năm 1945 đến năm 1952
Sự thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã để lại cho Nhật Bản những hậu quả hết sức nặng nề.
Khoảng 3 triệu người chết và mất tích; 40% đô thị, 80% tàu bè, 34% máy móc công nghiệp bị phá hủy; 13 triệu người thất nghiệp; thảm họa đói, rét đe dọa toàn nước Nhật.
Sau chiến tranh, Nhật Bản bị quân đội Mĩ, với danh nghĩa lực lượng Đồng minh, chiếm đóng từ năm 1945 đến năm 1952, nhưng chính phủ Nhật Bản vẫn được phép tồn tại và hoạt động.
Về chính trị, Bộ Chỉ huy tối cao lực lượng Đồng minh (viết tắt theo tiếng Anh là SCAP) đã loại bỏ chủ nghĩa quân phiệt và bộ máy chiến tranh của Nhật Bản. Tòa án Quân sự Viễn Đông đã xét xử tội phạm chiến tranh Nhật Bản (kết án tử hình 7 tên, tù chung thân 16 tên). Hiến pháp mới do SCAP tổ chức soạn thảo (có hiệu lực từ ngày 3-5-1947), quy định Nhật Bản là nước quân chủ lập hiến, nhưng thực chất là theo chế độ dân chủ đại nghị tư sản. Hiến pháp mới vẫn duy trì ngôi vị Thiên hoàng song chỉ mang tính tượng trưng, không còn quyền lực đối với Nhà nước; xác định Nghị viện gồm hai viện, do nhân dân bán ra, là cơ quan quyền lực tối cao giữ quyền lập pháp; Chính phủ nắm quyền hành pháp do Thủ tướng đứng đầu. Nhật Bản cam kết từ bỏ việc tiến hành chiến tranh, không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; không duy trì quân đội thường trực, chỉ có lực lượng phòng vệ dân sự bảo đảm an ninh, trật tự trong nước.
Về kinh tế, SCAP đã thực hiện ba cuộc cải cách lớn: một là, thủ tiêu chế độ tập trung kinh tế, trước hết là giải tán các “Daibátxư” (tức là các tập đoàn, công ti tư bản lũng đoạn còn mang tính chất dòng tộc); hai là, cải cách ruộng đất, quy định địa chủ chỉ được sở hữu không quá 3 hécta ruộng, số còn lại Chính phủ đem bán cho nông dân; ba là, dân chủ hóa lao động (thông qua việc thực hiện các đạo luật về lao động). Dựa vào sự nỗ lực của bản thân và viện trợ của Mĩ, đến khoảng năm 1950-1951, Nhật Bản đã khôi phục kinh tế, đạt mức trước chiến tranh.
Trong chính sách đối ngoại, Nhật Bản chủ trương liên minh chặt chẽ với Mĩ. Nhờ đó, nước Nhật sớm kí kết được Hiệp ước hòa bình Phranxixcô (8-9-1951), chấm dứt chế độ chiếm đóng của Đồng minh (1952). Cùng ngày, Hiệp ước an ninh Mĩ-Nhật được kí kết, đặt nền tảng mới cho quan hệ giữa hai nước. Theo đó, Nhật Bản chấp nhận đứng dưới “chiếc ô” bảo hộ hạt nhân của Mĩ, để cho Mĩ đóng quân và xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật Bản.
Nhật Bản từ năm 1952 đến năm 1973
Sau khi được phục hồi, từ năm 1952 đến năm 1962, kinh tế Nhật Bản có bước phát triển nhanh, nhất là từ năm 1960 đến năm 1973, thường được gọi là giai đoạn phát triển “thần kì”.
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của Nhật Bản từ năm 1960 đến năm 1969 là 10,8%; từ năm 1970 đến năm 1973, tuy có giảm đi nhưng vẫn đạt bình quân 7,8%, cao hơn rất nhiều so với các nước phát triển khác. Năm 1968, kinh tế Nhật Bản đã vượt Anh, Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức, Italia và Canada; vươn lên đứng thứ hai trong thế giới tư sản (sau Mĩ).
Từ đầu những năm 70 trở đi, Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế-tài chính lớn nhất của thế giới (cùng với Mĩ và Tây Âu).
Nhật Bản rất coi trọng giáo dục và khoa học-kĩ thuật, luôn tìm cách đẩy nhanh sự phát triển bằng cách mua bằng phát minh sáng chế. Tính đến năm 1968, Nhật Bản đã mua bằng phát minh của nước ngoài trị giá 6 tỉ USD. Khoa học-kĩ thuật và công nghệ Nhật Bản chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất ứng dụng dân dụng, đạt được nhiều thành tựu lớn.
Ngoài các sản phẩm dân dụng nổi tiếng thế giới (như tivi, tủ lạnh, ôtô v.v.., Nhật Bản còn đóng tàu chở dầu có trọng tải 1 triệu tấn; xây dựng các công trình thế kỉ như đường ngầm dưới biển dài 53,8 km nối hai đảo Hônsu và Hốccaiđô, cầu đường bộ dài 9,4 km nối hai đảo Hônsu và Sicôcư.

Nhật bản nhanh chóng vươn lên thành một siêu cường kinh tế (sau Mĩ) là do một số yếu tố sau: 1. ở Nhật Bản, con người được coi là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định hàng đầu; 2. Vai trò lãnh đạo, quản lí có hiệu quả của Nhà nước; 3. Các công ti Nhật Bản năng động, có tầm nhìn xa, quản lí tốt nên có tiềm lực và sức cạnh tranh cao; 4. Nhật Bản biết áp dụng các thành tựu khoa học-kĩ thuật hiện đại để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm; 5. Chi phí cho quốc phòng của Nhật Bản thấp (không vượt quá 1% GDP), nên có điều kiện tập trung vốn đầu tư cho kinh tế; 6. Nhật Bản đã tận dụng tốt các yếu tố bên ngoài để phát triển, như nguồn viện trợ Mĩ, các cuộc chiến tranh ở Triều Tiên (1950-1953) và Việt Nam (1954-1975) để làm giàu v.v..
Tuy nhiên, nền kinh tế Nhật Bản vẫn có những hạn chế và hặp phải nhiều khó khăn: 1. Lãnh thổ Nhật Bản không rộng, tài nguyên khoáng sản rất nghèo nàn, nền công nghiệp của Nhật Bản hầu như phụ thuộc vào các nguồn nguyên, nhiên liệu nhập khẩu từ bên ngoài; 2. Cơ cấu cùng kinh tế của Nhật Bản thiếu cân đối, tập trung chủ yếu vào ba trung tâm là Tôkiô, Ôxaca và Nagôia, giữa công nghiệp và nông nghiệp cũng có sự mất cân đối; 3. Nhật Bản luôn gặp sự cạnh tranh quyết liệt của Mĩ, Tây Âu, các nước công nghiệp mới, Trung Quốc v.v..
Về chính trị, từ năm 1955 đến năm 1993, Đảng Dân chủ Tự do (LDP) liên tục cầm quyền ở Nhật Bản. Dưới thời Thủ tướng Ikêda Hayato (1960-1964). Nhật Bản chủ trương xây dựng “Nhà nước phúc lợi chung”, tăng thu nhập quốc dân lên gấp đôi trong vòng 10 năm (1960-1970).
Nền tảng căn bản trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản vẫn là lien minh chặt chẽ với Mĩ. Hiệp ước an ninh Mĩ- Nhật (kí năm 1951) có giá trị trong 10 năm, sau đó được kéo dài vĩnh viễn. Tuy vậy, phong trào đấu tranh của nhân dân Nhật Bản chống Hiệp ước an ninh Mĩ-Nhật, chống chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam, cũng như các cuộc đấu tranh theo mùa (mùa xuân và mùa thu) kể từ năm 1954 trở đi đòi tăng lương, cải thiện đời sống luôn diễn ra mạnh mẽ.
Năm 1956, Nhật Bản bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Cùng năm đó, Nhật Bản là thành viên của Liên hợp quốc.
Nhật Bản từ năm 1973 đến năm 1991
Do tác động của cuộc khủng hoảng năng lượng thế giới, từ năm 1973 trở đi, sự phát triển kinh tế của Nhật Bản thường xen kẽ với những giai đoạn suy thoái ngắn. Tuy nhiên, từ nửa sau những năm 80, Nhật Bản đã vươn lên thành siêu cường tài chính số một thế giới với lượng dự trữ vàng và ngoại tệ gấp 3 lần của Mĩ, gấp 1,5 lần của Cộng hòa Liên bang Đức. Nhật Bản cũng là chủ nợ lớn nhất thế giới.

Với tiềm lực kinh tế-tài chính ngày càng lớn mạnh, từ nửa sau những năm 70, Nhật Bản bắt đầu đưa ra chính sách đối ngoại mới, thể hiện trong học thuyết Phucưđa (1977) và học thuyết Kaiphu (1991). Nội dung chủ yếu của các học thuyết trên là tăng cường quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội với các nước Đông Nam Á và tổ chức ASEAN.
Nhật Bản từ năm 1991 đến năm 2000
Từ đầu thập kỉ 90, kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng suy thoái nhưng Nhật Bản vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế-tài chính lớn của thế giới.
Tỉ trọng của Nhật Bản trong nền sản xuất của thế giới là 1/10. GDP của Nhật Bản năm 2000 là 4 746 tỉ USD và bình quân GDP trên đầu người là 37 408 USD.
Khoa học- kĩ thuật của Nhật Bản vẫn tiếp tục phát triển ở trình độ cao. Tính đến năm 1992, Nhật Bản đã phóng 49 vệ tinh khác nhau và hợp tác có hiệu quả với Mĩ, Liên Xô (sau là Liên bang Nga), trong các chương trình vũ trụ quốc tế.
Về văn hóa, tuy là một nước tư bản phát triển cao nhưng Nhật Bản vẫn giữ được những giá trị truyền thống và bản sắc văn hóa của mình. Sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại là nét đáng chú ý trong đời sống văn hóa Nhật Bản.
Về chính trị, sau 38 năm Đảng Dân chủ Tự do liên tục cầm quyền (1955-1993), từ năm 1993 đến năm 2000, chính quyền ở Nhật Bản thuộc về các đảng đối lập hoặc liên minh các đảng phái khác nhau, tình hình xã hội Nhật Bản có phần không ổn định.
Trận động đất ở Côbê (1-1995) đã gây thiệt hại lớn về người và của; vụ khủng bố bằng hơi độc trong đường tàu điện ngầm của giáo phái Aum (3-1995) và nạn thất nghiệp tăng cao v.v. đã làm cho nhiều người dân Nhật Bản hết sức lo lắng.
Về đối ngoại, Nhật Bản tiếp tục duy trì sự liên minh chặt chẽ với Mĩ. Tháng 4-1996, hai nước ra tuyên bố khẳng định lại việc kéo dài vĩnh viễn Hiệp ước an ninh Mĩ-Nhật. Mặt khác, với học thuyết Miyadaoa (1-1993), và học thuyết Hasimôtô (1-1997), Nhật Bản vẫn coi trọng quan hệ với Tây Âu, mở rộng hoạt động đối ngoại với các nước Đông Nam Á.
Từ đầu những năm 90, Nhật Bản nỗ lực vươn lên thành một cường quốc chính trị để tương xứng với vị trí siêu cường kinh tế.
Nêu nội dung cơ bản của những cải cách dân chủ ở Nhật Bản trong thời kì bị chiếm đóng
Những cải cách dân chủ ở Nhật Bản trong thời kì bị chiếm đóng:
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã bị quân đội Mĩ với danh nghĩa lực lượng Đồng minh, chiếm đóng từ năm 1945 đến năm 1952 nhưng Chính phủ Nhật Bản vẫn được phép tồn tại và quản lí đất nước.
-Về chính trị, Bộ Chỉ huy tối cao lực lượng Đồng minh (viết tắt theo tiếng Anh là SCAP) đã loại bỏ chủ nghĩa quân phiệt và bộ máy chiến tranh của Nhật Bản. Hiến pháp mới do SCAP tổ chức soạn thảo (có hiệu lực từ ngày 3-5-1947), quy định Nhật Bản là nước quân chủ lập hiến, nhưng thực chất là theo chế độ dân chủ đại nghị tư sản.
– Về kinh tế, SCAP đã thực hiện ba cuộc cải cách lớn: một là, thủ tiêu chế độ tập trung kinh tế, trước hết là giải tán các “Daibátxư”; hai là, cải cách ruộng đất, quy định địa chủ chỉ được sở hữu không quá 3 hécta ruộng, số còn lại Chính phủ đem bán cho nông dân; ba là, dân chủ hóa lao động (thông qua việc thực hiện các đạo luật về lao động).
Những cải cánh trên đã trở thành một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của Nhật Bản sau chiến tranh.
Liên minh Nhật-Mĩ được biểu hiện như thế nào ?
Liên minh Nhật-Mĩ
Sau chiến tranh, quân Đồng minh, thực tế là quân Mĩ chiếm đóng Nhật Bản. Chính quyền chiếm đóng đã thực hiện những chính sách tiến bộ như xét xử tội phạm chiến tranh, xóa bỏ các tổ chức quân phiệt, loại bỏ những phần tử liên quan đến chủ nghĩa quân phiệt ra khỏi bộ máy nhà nước…
Liên minh Nhật-Mĩ ra đời đáp ứng nhu cầu của cả hai nước. Trong bối cảnh Chiến tranh lạnh, Nhật Bản cần dựa vào sự bảo trợ của Mĩ để đảm bảo an ninh và tập trung phát triển kinh tế. Mĩ muốn độc chiểm ảnh hưởng ở Nhật Bản, biến Nhật Bản thành đồng minh trong việc thực hiện tha vọng bá chủ châu Á và chống lại phe XHCN.
Nhờ vậy, nước Nhật sớm kí kết được Hiệp ước hòa bình Phranxixcô (8-9-1951), chấm dứt chế độ chiếm đóng của Đồng minh (1952). Cùng ngày, Hiệp ước an ninh Mĩ-Nhật được kí kết, đặt nền tảng mới cho quan hệ giữa hai nước.
Theo đó, Nhật Bản chấp nhận đứng dưới “chiếc ô” bảo hộ hạt nhân của Mĩ, để cho Mĩ đóng quân và xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật Bản.
Những nhân tố nào thúc đẩy sự phát triển “thần kì” của kinh tế Nhật Bản ?
Những nhân tố thúc đẩy sự phát triển “thần kì” của kinh tế Nhật Bản:
Xem nội dung 1- phần Kiến thức cơ bản để trả lời.
Nêu những nét cơ bản về tình hình kinh tế và chính trị của Nhật Bản trong thập kỉ 90 của thế kỉ XX
Những nét cơ bản về tình hình kinh tế và chính trị của Nhật Bản trong thập kỉ 90 :
-Trong thập kỉ 90, nền kinh tế Nhật Bản hầu như chìm đắm trong suy thoái kéo dài. Cuộc khủng hoảng tiền tệ -tài chính châu Á trong những năm 1997-1998 lại giáng một đòn nặng nề vào kinh tế Nhật Bản. Từ năm 1998, nền kinh tế Nhật Bản được phục hồi, sau đó tiếp tục phát triển.
-Về chính trị, năm 1993, Đảng Dân chủ Tự do chấm dứt sự cầm quyền. Từ đó các đảng phái khác hoặc liên minh các đảng thay nhau cầm quyền. Tình hình chính trị-xã hội có phần không ổn định…
Những yếu tố nào khiến Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm lớn của thế giới vào nửa cuối thế kỉ XX ?
Những yếu tố khiến Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm lớn của thế giới vào nửa cuối thế kỉ XX:
Trình bày những thành tựu của Nhật Bản về kinh tế và khoa học-kĩ thuật sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Những nguyên nhân khiến Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm lớn của thế giới vào nửa cuối thế kỉ XX.
Khái quát chính sách đối ngoại của Nhật Bản trong thời kì Chiến tranh lạnh
Chính sách đối ngoại của Nhật Bản trong thời kì Chiến tranh lạnh:
Dựa vào nội dung SGK để trình bày chính sách đối ngoại của Nhật Bản qua các giai đoạn: 1945-1952, 1952-1973, 1973-1991.
Nêu những khó khăn đối với sự phát triển kinh tế ở Nhật Bản
Những khó khăn đối với sự phát triển kinh tế ở Nhật Bản:
-Lãnh thổ Nhật Bản không rộng, tài nguyên khoáng sản rất nghèo nàn, nền công nghiệp của Nhật Bản hầu như phụ thuộc vào các nguồn nguyên, nhiên liệu nhập khẩu từ bên ngoài.
– Cơ cấu cùng kinh tế của Nhật Bản thiếu cân đối, tập trung chủ yếu vào ba trung tâm là Tôkiô, Ôxaca và Nagôia, giữa công nghiệp và nông nghiệp cũng có sự mất cân đối.
– Nhật Bản luôn gặp sự cạnh tranh quyết liệt của Mĩ, Tây Âu, các nước công nghiệp mới, Trung Quốc…
Bài tập 1 trang 32,33 Sách bài tập (SBT) Lịch sử 12
Hãy khoanh tròn chữ cái trước ý đúng.
1. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản bị chiếm đóng bởi quân đội
A. Mĩ. B. Anh. C. Pháp. D. Liên Xô.
2. Văn kiện đặt nền tảng cho quan hệ Mĩ – Nhật sau Chiên tranh thé giới thứ hai là
A. Văn kiện về vấn đề Nhật Bản tại hỉội nghị Pốtxđam (1945).
B. Hiến pháp Nhật Bản (1947).
C. Hiệp ước hoà bình Xan Phranxixcô (1951).
D. Hiệp ước an ninh Mĩ – Nhật (1951).
3. Các cuộc chiến tranh được ví nhu “ngọn gió thán” thổi vào nến kinh tế Nhật Bản là
A. chiến tranh Trung Quốc (1946 – 1949) và chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953).
B. chiến tranh Triếu Tiên (1950 – 1953) và chiến tranh Việt Nam (1954 – 1975).
C. chiến tranh Trung Quốc (1946 – 1949) và chiến tranh vùng Vịnh (1991).
D. chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953) và chiến tranh vùng Vịnh (1991).
4. Nhật Bản chính thức gia nhập Liên hợp quốc vào năm
A. 1952. B. 1955. C. 1956. D. 1970.
5. Nhật Bản trở thành siêu cường tài chính số một thế giới vào
A. thập kỉ 70 của thế kỉ XX. C. cuối thập kỉ 80 của thế kỉ XX.
B. đầu thập kỉ 80 của thế kỉ XX. D. thập kỉ 90 của thế kỉ XX.
6. Học thuyết đánh dấu sự bắt đầu chú trọng tới châu Á của Nhật Bản trong chính sách đổi ngoại là
A. học thuyết Phucưđa (1977). C. học thuyết Miyadaoa (1993).
B. học thuyết Kaiphu (1991). D. học thuyết Hasimôtô (1997).
Trả lời:
1. Chọn đáp án: A
2. Chọn đáp án: D
3. Chọn đáp án: B
4. Chọn đáp án: C
5. Chọn đáp án: C
6. Chọn đáp án: A
Bài tập 2 trang 33 Sách bài tập (SBT) Lịch sử 12
Hãy ghép thời gian với nội dung sự kiện lịch sử trong bảng dưới đây cho phù hợp
Thời gian | Nội dung sự kiện lịch sử |
1. Từ năm 1945 đến năm 1952,
2. Năm 1947, 3. Từ năm 1950 đến năm 1951, 4. Năm 1956, 5. Từ năm 1963 đến năm 1970, 6. Năm 1973, |
a)Hiến pháp mới được ban hành sau Chiến tranh thế giới thứ hai có hiệu lực.
b)kinh tế Nhật Bản phát triển “thần kì”. c)Lục lượng Đồng minh (Mĩ) chiếm đóng Nhật Bản. d)Nhật Bản khôi phục nền kinh tế đạt mức trước chiến tranh. e)Nhật Bản bình thường hoá quan hệ với Liên xô. g)Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam
|
Trả lời:
1.c
2.a
3.d
4.e
5.b
6.g
Bài tập 3 trang 34 Sách bài tập (SBT) Lịch sử 12
Hãy ghép các nội dung ở cột giữa với nguyên nhân hoặc thành tựu của nền kinh tế Nhật Bản tù năm 1952 đến năm 1973 cho phù hợp.
1. Nguyên nhân | a) Trong những năm 1960 – 1969, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm của Nhật Bản đạt 10,8%ề
b) Nhật Bản đã tận dụng tốt các yếu tố bên ngoài để phát triển. c) Nhà nước lãnh đạo và quản lí có hiệu quả. d) Năm 1968, kinh tế Nhật Bản đã vươn lên đứng thứ hai thế giới (sau Mĩ). e) Người dân Nhật Bản có truyền thống lao động tốt, nhiều khả năng sáng tạo, tay nghề cao và tiết kiệm. g) Chi phí cho quốc phòng của Nhật Bản thấp nên có điếu kiện tập trung vốn đẩu tư cho sản xuất. h) Từ đầu những năm 70 trở đi, Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế – tài chính lớn của thể giới (cùng với Mĩ và Tây Âu). i) Các công ti Nhật Bản năng động, có tầm nhìn xa, quản lí tốt nên có tiềm lực và sức cạnh tranh cao. k) Nhật Bản biết áp dụng các thành tựu khoa học – kĩ thuật hiện đại để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. |
2. Thành tựu |
Trả lời:
1- b, c, e, g, i, k
2- a, d, h
Bài tập 4 trang 35, 36 Sách bài tập (SBT) Lịch sử 12
Hoàn thành bảng hệ thống các giai đoạn phát triển về kinh tế, khoa học – kĩ thuật của Nhật Bản từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 2000.
Các giai đoạn |
Kinh tế |
Khoa học – kĩ thuật |
1945- 1952 | ||
1952- 1973 | ||
1973- 1991 | ||
1991-2000 |
Trả lời:
Các giai đoạn |
Kinh tế |
Khoa học – kĩ thuật |
1945- 1952 | SCAP tiến hành 3 cải cách lớn:
– Thủ tiêu chế độ tập trung kinh tế, giải tán các tập đoàn lũng đoạn “Dai-bát-xư”. – Cải cách ruộng đất, hạn chế ruộng địa chủ, đem bán cho nông dân. – Dân chủ hóa lao động. – Từ năm 1950 – 1951: Nhật khôi phục kinh tế.Kinh tế đạt mức trước chiến tranh. |
|
1952- 1973 | – 1952 – 1960: phát triển nhanh.
– 1960 – 1973 phát triển thần kỳ (tốc độ tăng trưởng bình quân là 10,8%/ năm). Năm 1968, vươn lên hàng thứ hai thế giới tư bản sau Mỹ ( tổng sản phẩm quôc dân là 183 tỷ USD.. – Đầu những năm 70, Nhật trở thành một trong ba trung tâm kinh tế – tài chính thế giới cùng với Mỹ và Tây Âu. |
– Rất coi trọng giáo dục và khoa học- kỹ thuật, mua bằng phát minh sáng chế
– Phát triển khoa học – công nghệ chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất ứng dụng dân dụng (đóng tàu chở dầu 1 triệu tấn, xây đường hầm dưới biển dài 53,8 km nối Honsu và Hokaido, cầu đường bộ dài 9,4 km…) |
1973- 1991 | – Từ 1973, do tác động khủng hoảng năng lượng, kinh tế Nhật thường khủng hoảng và suy thoái ngắn.
– Từ nửa sau 1980, Nhật vươn lên trở thành siêu cường tài chính số một thế giới với dự trữ vàng và ngoại tệ gấp 3 lần Mỹ, gấp 1,5 lần CHLB Đức, trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới. |
|
1991-2000 | Vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế – tài chính lớn của thế giới (năm 2000, GNP là 4746 tỷ USD, GDP bình quân là 37408 USD). | Phát triển ở trình độ cao. Năm 1992, phóng 49 vệ tinh nhân tạo, hợp tác với Mỹ, Nga trong các chương trình vũ trụ quốc tế. |
Bài tập 5 trang 36, 37 Sách bài tập (SBT) Lịch sử 12
Hãy trình bày những nét chính trong, chính sách đối ngoại của Nhật Bản từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 2000.
Trả lời:
*Giai đoạn 1945 – 1952 :
– Liên minh chặt chẽ với Mỹ, ký Hiệp ước hòa bình Xan Pharan-xi cô( 9-1951), chấm dứt việc chiếm đóng của đồng munh Mỹ
– 8/9/1951 ký Hiệp Ước An ninh Mỹ-Nhật:chấp nhận Mỹ bảo hộ, cho Mỹ đóng quân và xây dựng căn cứ quân sự trên đất Nhật.
*Giai đoạn 1952 – 1973 :
– Liên minh chặt chẽ với Mỹ, đứng về phía Mỹ trong chiến tranh Việt nam.
– 1956 bình thường hóa với Liên xô, tham gia Liên Hiệp Quôc.
*Giai đoạn 1973 – 1991 :
– “Học thuyết Phu-cư-đa” (1977) và “Học thuyết Kai-phu” (1991) chủ trương tăng cường quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội với các nước Đông Nam Á và tổ chức ASEAN.
– Thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam 21/9/1973.
*Giai đoạn 1991 – 2000 :
– Tiếp tục liên minh chặt chẽ với Mỹ. 4-1996 Mỹ -Nhật, kéo dài vĩnh viễn Hiệp Ước An ninh Mỹ- Nhật.
– Học thuyết “Mi-y-da-oa” và “Ha-si-mô-tô” coi trọng quan hệ với Tây Âu, mở rộng đối ngoại trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt với Đông Nam Á và tổ chức ASEAN.
Bài tập 6 trang 37 Sách bài tập (SBT) Lịch sử 12
Hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò của nhân tố Mĩ trong sự phát triển của Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trả lời:
Ngày 8/9/1951, Nhật kí với Mĩ “Hiệp ước an ninh Mĩ – Nhật”, chấp nhận đặt Nhật Bản dưới “ô bảo vệ hạt nhân” của Mĩ và để quân đội Mĩ xây dựng các căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật. “Hiệp ước an ninh Mĩ – Nhật” đã gia hạn hai lần vào năm 1960 và năm 1970, sau đó kéo dài vô thời hạn. Với hiệp ước này, đã hình thành một “liên minh Mĩ – Nhật” nhằm chống lại các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc ở vùng Viễn Đông. Nhật Bản đã trở thành một “căn cứ chiến lược” của Mĩ trong âm mưu thực hiện “chiến lược toàn cầu” chống cách mạng vào những năm 70 và nửa đầu những năm 80, Mĩ còn trên đất Nhật 179 căn cứ quân sự với 61.000 quân, riêng ở đảo Ôkinaoa có 88 căn cứ quân sự và 35.000 lĩnh Mĩ.
=> Dưới “chiếc ô” bảo hộ của Mĩ, Nhật Bản không tốn chi phí cho quốc phòng => Có điều kiện tập trung phát triển kinh tế.
- Nghị luận xã hội : Hạnh phúc trong tầm tay
- Chia sẻ kinh nghiệm học văn dành cho học sinh THPT
- Nghị luận xã hội :ta không được chọn nơi mình sinh ra nhưng ta được chọn cách mình sẽ sống
- Nghị luận về câu nói :Ý chí là con đường về đích sớm nhất
- Viết đoạn văn Nghị luận xã hội 200 chữ :Tình yêu đôi lúc chẳng cần sự đền đáp qua lại